Ở nước ngoài, mỗi khi nghe tin con cháu người thân, bạn bè trúng tuyển vào các trường luật, tôi thấy vui mừng thật sự. Vì tôi biết, tại các quốc gia văn minh, trở thành sinh viên luật là bước đầu của một hành trình nghề nghiệp đầy sự hãnh diện.
Sau khi tốt nghiệp, các cháu sẽ bước vào hàng ngũ của những người hành nghề danh giá trong xã hội: Luật sư, công tố viên, thẩm phán, giáo sư luật… những trợ tá công lý, góp phần giữ gìn nền tảng công lý, công bằng và trật tự xã hội.
Nhưng ở Việt Nam, mỗi khi thấy bạn bè trong nước khoe tin con cháu vừa trúng tuyển vào Đại học Luật hay các trường đào tạo luật, lòng tôi như chùng lại. Không phải vì tôi không yêu nghề, mà vì tôi hiểu quá rõ những nghề nghiệp trong nền tư pháp ấy trong bối cảnh hiện nay, một nền tư pháp băng hoại đến dường nào.
Tôi không thể nói lời chúc mừng họ, vì tôi không nghĩ đấy là tin đáng mừng, cho nên, chúc mừng là sự giả dối đối với họ và với tôi. Tôi cũng không thể sỗ sàng nói trọn sự thật cho họ biết, vì như thế chẳng khác gì tạt gáo nước lạnh vào niềm vui của gia đình họ. Kể cả im lặng lướt qua, tôi vẫn thấy bất an như vừa lỡ khước từ một người hành khất cần sự giúp đỡ vậy.
Tôi đã học và hành nghề luật tròm trèm gần ba mươi lăm năm, tính từ năm 1990 khi tôi bước chân vào khoa luật. Quãng thời gian ấy đủ để tôi thấy hết, hiểu hết sự tàn tạ của nền tư pháp Việt Nam.
Nếu công lý, công bằng là trái tim, là mạch sống còn của pháp quyền, thì trái tim ấy đã chưa bao giờ có nhịp đập ngay từ khởi thủy. Chúng chỉ là cái xác sống biết cử động như trong các phim zombie mà thôi.
Chắc chúng ta vẫn chưa quên về nhân vật Nguyễn Hòa Bình, năm 2023, khi còn là Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, ông ấy đã từng đề nghị Quốc hội “chấp nhận” việc xét xử oan sai đến 9.000 vụ án mỗi năm.
9.000 vụ án, tương dương với 9.000 số phận con người, hoặc tài sản của họ sẽ bị bất công nghiền nát bởi một bộ máy tư pháp của chế độ nhân danh công lý. Và điều kinh khủng hơn, là Quốc hội đã gật đầu chấp thuận con số bất công kinh hoàng đó.
Nếu như ở một quốc gia thượng tôn pháp luật, chỉ cần một vụ oan sai cũng đủ để Bộ trưởng Tư pháp phải từ chức, thì ở Việt Nam, oan sai đã trở thành chỉ tiêu hành chính được hợp thức hóa. Đến mức độ, con số vụ án oan sai được đề nghị chấp thuận lên đến gần 1 vạn vụ án?!
Trong phiên tòa Việt Nam hôm nay, ta nhìn thấy ba lớp diễn viên trên cùng một sân khấu, như công tố giả vờ buộc tội, luật sư giả vờ bào chữa, tòa án giả vờ xét xử và rồi, cho ra một bản án giả vờ như công lý.
Cái giả vờ của tất cả các thành phần tố tụng không chỉ nằm ở thủ tục tố tụng, mà còn ăn sâu vào tâm thế con người trong hệ thống ấy.
Vì lẽ, thẩm phán đã có sẵn bản án từ khi chưa xét xử, mà công chúng vẫn thường gọi là “Bản án bỏ túi”. Nhưng trong buổi xét xử, họ vẫn giả vờ vào phòng riêng để nghị án, rồi trở ra long trọng “Nhân danh Nước CHXHCN Việt Nam” đọc bản án đã được định sẵn.
Luật sư biết mình không thể cứu được thân chủ, nhưng vẫn phải diễn cho tròn vai, vẫn phải bào chữa sùi bọt mép với những lập luận tưởng chừng như chặt chẽ để làm vui tai thân chủ.
Công tố viên biết rõ mình đang cáo buộc phi lý, bất công, nhưng vẫn hăng hái buộc tội để hoàn thành nhiệm vụ. Thậm chí, có công tố viên còn thẳng thắn đến mức tuyên bổ miễn tranh luận với luật sư. Vì lẽ, tranh luận có đuối lý đi chăng nữa, thì cũng không thể thay đổi được bản án đã định sẵn.
Với một nền tư pháp như thế, sự chính trực không hề có đất để tồn tại, thế nhưng, lại thừa đất cho các vai diễn.
Ngày trước, ở phương Tây, sinh viên luật được dạy điều đầu tiên là: “Justice must not only be done, but must be seen to be done”, hiểu nôm na “Công lý không chỉ được thực thi, mà còn phải được nhìn thấy là công lý”.
Ở Việt Nam, người học luật được dạy cách tránh phạm húy chính trị, thuộc lòng điều khoản, và biết chọn im lặng đúng lúc.
Trường luật đào tạo những người hiểu luật, nhưng nghề nghiệp không dạy họ cách yêu công lý. Trường luật dạy cho sinh viên cách bào chữa, nhưng nghề nghiệp lại cấm họ nói sự thật. Và tệ hơn, chế độ biến trường luật thành cái nôi sản sinh ra những “công cụ chính trị”, những người được học tập để phục tùng quyền lực chứ không phải để bảo vệ công lý.
Không phải ngẫu nhiên mà những luật sư từng lên tiếng bảo vệ nhân quyền đều lần lượt bị rút thẻ, bị cấm hành nghề, bị theo dõi, bị khủng bố tinh thần, thậm chí, phải lưu vong.
Một nền tư pháp mà khi chỉ nói thật, thì luật sư đã bị xem là tội phạm thì làm sao người dân còn tin vào nền tư pháp ấy?
Tôi nhớ về vụ án Đồng Tâm, ngay trong buổi xét xử đầu tiên, bất chấp quy định tố tụng, chủ tọa phiên tòa đã đồng ý với lực lượng an ninh tước quyền của luật sư được tiếp xúc với các thân chủ của mình, với lý do: “Các luật sư đã được tiếp xúc trước đây rồi, cho nên, không cần phải tiếp xúc lại?!”.
Trong một vụ án chính trị trước đó tại Nghệ An, tòa án cũng ngang nhiên tước quyền sao chụp hồ sơ vụ án của luật sư. Đồng thời, trong một cách hành xử chưa từng có tiền lệ, tòa án này gởi văn bản cho Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư, yêu cầu nhắc nhở tôi phải đến bào chữa theo quyết định xét xử?!.
Lại một vụ án chính trị khác, xét xử nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang. Mặc dù tôi đã lên tiếng phản đối theo quy định, nhưng chủ tòa phiên tòa vẫn làm ngơ để cho các phóng viên ảnh đài VTV chỉa ống kính săm soi chụp ảnh cô ấy.
Trên chỉ là vài trong hàng hàng trăm ví dụ về người cầm cán cân công lý cũng có khi chính là kẻ đang nghiến nát công lý dưới gót giày quyền lực. Khi đó, bất công không chỉ đến từ vụ án, mà đến từ ngay thẩm phán xét xử vụ án.
Tôi không bi quan với lớp trẻ khi họ còn ngồi ghế nhà trường, nhưng tôi lo lắng cho môi trường mà họ bước vào sau khi tốt nghiệp trường luật.
Vì lẽ, lúc này, một cử nhân luật, nếu thật sự muốn sống đúng với nghề, phải chấp nhận ba lựa chọn nghiệt ngã:
Nhúng chàm để tồn tại,
Không nhúng chàm và bị gạt ra bên lề,
Đấu tranh và bị trù dập.
Cả ba con đường ấy đều không dễ dàng cho một tân cử nhân luật, và càng không có chỗ cho những người chỉ muốn đơn giản, là “sống đàng hoàng với nghề”.
Vì thế, khi thấy bạn bè hãnh diện khoe “con tôi theo ngành luật”, tôi chỉ thấy lòng đầy e ngại. Bởi tôi hiểu, trong môi trường này, chọn hành nghề luật chính là chọn bước đi trên dây như người làm xiếc, giữa đạo đức và sinh tồn.
Pháp quyền không thể tồn tại trong một xã hội không có tự do ngôn luận, không có báo chí độc lập, không có cơ chế giám sát quyền lực.
Ở Việt Nam, các trường luật của chế độ Cộng sản đã khẳng định rất rõ, rằng luật pháp là công cụ của giai cấp thống trị dùng để cai trị giai cấp bị trị. Cho đến khoảng hơn 10 năm trở lại, chế độ mới bắt đầu cho khôi phục lại các khái niệm công lý, công bằng và đưa chúng vào các văn bản luật pháp.
Thế nhưng, sự khôi phục các khái niệm này chỉ như lớp men trang trí mà thôi, chúng không hề có giá trị thực chất. Vì lẽ, một khi còn tồn tại quan điểm luật pháp là công cụ của giai cấp thống trị, thì khi đó, ngành tư pháp chỉ có mỗi một nhiệm vụ là bảo vệ chế độ, bảo vệ chính quyền. Mặc nhiên, điều đó phủ nhận bảo vệ công lý, công bằng xã hội.
Trong một bối cảnh xã hội như thế, người học luật giỏi đến đâu, có tâm huyết cao đến mức nào, cũng chỉ là người cầm que diêm lẻ loi đi trong bóng đêm mịt mùng. Họ có thể biết luật, nhưng không thể thực hành nó, có thể hiểu công lý, nhưng không thể chạm tới nó.
Tại các quốc gia phương Tây, tính riêng trong giới luật sư, họ đã chuyên môn hóa nghề nghiệp trong phạm vi rất hẹp, như luật sư di trú, luật sư thuế, luật sư bảo hiểm… Nhưng tại Việt Nam, số luật sư được chuyên môn hóa nghề nghiệp chưa nhiều. Phần lớn là luật sư “đụng”, tức là đụng đâu làm đó, đảm nhận tư vấn và bào chữa đủ các loại… Tựu trung, có thể tạm chia thành 2 nhóm, nhóm tư vấn và nhóm tranh tụng (bào chữa tại tòa).
Bài viết này, như trình bày trên, cho thấy sự tác động của nền tư pháp tác động rất nhiều vào nhóm luật sư tranh tụng. Theo đó, các tân sinh viên hoặc tân cử nhân luật theo đuổi con đường trở thành luật sư tư vấn cũng là một giải pháp tốt, vì hầu như, các bạn sẽ ít chịu sự tác động tiêu cực của nền tư pháp nhất.
Trong trường hợp này, các bạn vốn có mong muốn trở thành luật sư tranh tụng để tranh đấu, hướng đến các giá trị công lý, công bằng xã hội, e rằng không có đất cho các bạn.
Tóm lại, với tôi, như một người đã từng yêu quý ngành luật xiết bao, như người yêu một niềm tin, một lý tưởng. Nhưng càng sống lâu trong hệ thống đó, tôi càng thấy luật pháp Việt Nam càng giống như một chiếc mặt nạ mỹ miều, che giấu bộ mặt thật đầy nanh ác của quyền lực chính trị.
Nhưng trong những năm gần đây, thậm chí, chế độ cũng không còn bận tâm đến chiếc mặt nạ che đậy nữa, mà mọi sự xấu xa nhất, nanh ác nhất, đều mạnh dạn trưng bày tô hô trước bàn dân thiên hạ.
Vì vậy, khi nhìn thấy những tân sinh viên bước vào giảng đường luật tại Việt Nam với ánh mắt hồn nhiên, trong trẻo, khát khao lý tưởng, công lý, công bằng xã hội… tôi chỉ mong các em đủ can đảm để giữ lấy lương tâm của người học luật lâu nhất có thể, ngay cả khi công lý lúc này chỉ đang là ảo tưởng.
Kể ra, lúc nào, quê hương xứ sở cũng cần đến những người hành nghề luật với khát khao lý tưởng công lý, công bằng xã hội. Thế nhưng, bây giờ, với chế độ này, điều đó là hoàn toàn bất khả thi.
Hoa Thịnh Đốn, ngày 15 Tháng Mười 2025
Đặng Đình Mạnh
Nguồn : www.facebook.com
Năm 2011, cả thế giới chứng kiến hàng triệu người dân Ả Rập xuống đường…
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên Tổ chức dân chủ bình yên mọi thời Những…
Để duy trì cuộc chiến với Ukraine, Nga đã quân sự hóa nền kinh tế.…
Nếu ai đó vẫn còn tin rằng Trump là người bảo vệ các giá trị…
Buổi trò chuyện sẽ làm sáng tỏ con đường đấu tranh của Tập Hợp Dân…
Hoa Kỳ và châu Âu đang chìm trong một cuộc khủng hoảng bất tín nhiệm…