Lột truồng bài diễn văn ngày 02/09/2025 của Tô Lâm (Ls Đặng Đình Mạnh)

Ngày 2 Tháng Chín 2025, tại quảng trường Ba Đình, thay vì Chủ tịch nước với tư cách người đứng đầu chính quyền, thì Tô Lâm, Tổng Bí thư, với tư cách người đứng đầu tổ chức đảng, đã “giành” quyền đọc diễn văn kỷ niệm 80 năm của cái gọi “Quốc khánh” Việt Nam.

Bài phát biểu được thiết kế như một bản tuyên ngôn chính trị, một mặt vừa khẳng định tính chính danh của chế độ, mặt khác vừa đặt ra mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045.

Tuy nhiên, khi đối chiếu với dữ liệu lịch sử và thực tế hiện tại, hàng loạt luận điểm trong bài diễn văn bộc lộ khoảng cách đáng kể giữa diễn ngôn chính trị và thực tế đã diễn ra.

Khung lịch sử và tính chính danh

Bài diễn văn mở đầu bằng việc tái hiện thời khắc Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 Tháng Chín 1945 tại Ba Đình, Hà Nội, xem đây là thời khắc tái sinh nền độc lập của đất nước sau thời kỳ bị đô hộ.

Tuy nhiên, lịch sử ghi nhận rằng ngày 11 Tháng Ba 1945, sau khi Nhật Bản đảo chính Pháp quốc và trao trả độc lập cho Việt Nam. Thể theo đó, Hoàng đế Bảo Đại ban hành Tuyên cáo Việt Nam Độc lập và cho thành lập Chính phủ do Thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu.

Chính phủ Trần Trọng Kim

Về phương diện pháp lý, kể từ thời điểm này, Việt Nam đã được độc lập, trước thời điểm Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập sau đó gần sáu tháng.

Việc Hồ Chí Minh đọc một bản tuyên ngôn mới là hoàn toàn thừa thãi. Nếu không, chỉ là lời tuyên bố đặt chủ quyền quốc gia dưới một chính thể khác, từ chính thể quân chủ sang chính thể cộng hòa mà thôi.

Đây là một thủ đoạn chính trị nhằm tái lập mốc khởi nguyên để gắn tính chính danh của chế độ hiện tại với một sự kiện do đảng Cộng Sản dẫn dắt, đồng thời làm lu mờ vai trò của chính thể tiền nhiệm. Cách lựa chọn mốc lịch sử này phản ánh một chiến lược “cưỡng chiếm độc quyền ký ức lịch sử” hơn là một trình bày đầy đủ về tiến trình độc lập.

Tri ân hay vong ơn?

Trong diễn văn, Tô Lâm bày tỏ lòng biết ơn với nhiều tầng lớp nhân dân, từ Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng đến kiều bào, nhằm khẳng định mọi thành phần đều là một phần của “câu chuyện chính nghĩa” do đảng Cộng Sản dẫn dắt.

Tuy nhiên, lịch sử hiện đại cho thấy sự tri ân này mang tính chọn lọc.

Cải cách ruộng đất

Trường hợp bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) là một minh chứng đau lòng: Bà từng đóng góp tài chính lớn cho kháng chiến, nhưng lại bị xử tử trong chiến dịch cải cách ruộng đất. Trường hợp bị vong ơn bội nghĩa như vậy xảy ra không ít, từ các chiến dịch “Long trời lở đất” như Nhân Văn Giai Phẩm, Cải Cách Ruộng Đất, cho đến Cải Tạo Tư Sản Công Thương Nghiệp, đổi tiền… tại miền năm sau năm 1975. Kể cả giải tỏa đất đai trong nhiều thập kỷ qua.

Cũng vậy, sau năm 1975, nhiều nhân vật miền Nam từng tham gia Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam, vốn là thực thể chính trị giả danh của chế độ Cộng Sản tại miền Nam cũng bị gạt ra khỏi các vị trí quyền lực.

Cho thấy, những trường hợp “tri ân” chỉ tồn tại khi còn phù hợp với lợi ích chính trị, và ký ức tập thể được huy động theo hướng củng cố tính chính danh của chế độ, chứ không phải để phản ánh công bằng lịch sử.

“Bảo vệ độc lập, chủ quyền” và thực tế lệ thuộc

Bài diễn văn nhấn mạnh “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ” như một ưu tiên bất biến. Nhưng thực tế, Việt Nam đang lệ thuộc sâu vào Trung Cộng về nhiều phương diện, nặng nề nhất phải kể đến chính trị, kinh tế và cả định hướng chính trị trong một số lĩnh vực chiến lược. Mỗi khi có biến động nhân sự cấp cao, lãnh đạo Việt Nam thường sang Bắc Kinh, một nghi thức mà nhiều nhà quan sát xem như là dấu hiệu tìm kiếm “sự chấp thuận và tấn phong” từ Trung Nam Hải.

Tàu đánh cá Trung quốc ở Biển Đông

Trên Biển Đông, các vụ việc tàu Trung Quốc xâm nhập, quấy rối ngư dân Việt Nam vẫn diễn ra, nhưng phản ứng chính thức thường ở mức hạn chế. Khoảng cách giữa khẩu hiệu “bảo vệ chủ quyền” và thực tế ứng xử trước sức ép từ Bắc Kinh là một điểm yếu nghiêm trọng không thể giải thích được trong thông điệp chính trị.

“An ninh, trật tự xã hội”, “ổn định chính trị” bằng niềm tin?

Trong diễn văn của mình, Tô Lâm xem việc “giữ gìn an ninh, trật tự” là nền tảng ổn định chính trị. Nhưng thực tế xã hội Việt Nam lại cho thấy một bức tranh khác đầy nghịch lý. Vì lẽ, cho dù chế độ sở hữu lực lượng công an, an ninh hùng hậu bật nhất trên thế giới, thế nhưng:

Tội phạm từ xã hội: Cướp giật, trộm cắp, lửa đảo, bạo lực (gia đình, học đường, đường phố…), xảy ra tràn lan tại khắp mọi miền đất nước.

Tội phạm từ hệ thống công quyền: Hàng loạt quan chức cấp cao bị khởi tố, cho thấy tệ nạn tham nhũng và tranh giành quyền lực phổ biến.

Sự “ổn định” xã hội và chính trị mà chính quyền đề cập, phần nhiều được duy trì bằng sự trừng phạt và hạn chế tự do dân sự, hơn là bằng kiểm soát quyền lực và đạo đức xã hội. Khi quyền lực không bị kiểm soát, khi đạo đức xã hội rơi tận đáy, thì an ninh chỉ là bề nổi mong manh.

Mốc 2045, lời hứa và di sản của sự bất tín

Bài diễn văn đặt mốc 100 năm “thành lập nước” như một “deadline lịch sử” để Việt Nam trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc. Đây là thông điệp vừa mang tính khát vọng, vừa là cam kết chính trị. Nhưng lịch sử gần đây cho thấy nhiều lời hứa tương tự của các lãnh đạo Cộng Sản đã chưa từng trở thành hiện thực.

Công chúng vẫn chưa quên những lời hứa hẹn của Hồ Chí Minh, người du nhập chủ nghĩa Cộng Sản tai hại về Việt Nam, như “Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”, hoặc “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.

Tương tự, năm 2010, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng Cộng Sản lúc bấy giờ cũng từng đưa ra lời cam kết mục tiêu “cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020” đến các kế hoạch tăng trưởng đầy tham vọng.

Nhưng đến nay, sau 50 năm “Thắng giặc Mỹ”, chúng ta đã có gì ngoài một đất nước hoang tàn, lạc hậu về mọi mặt. Những lời hứa hẹn, cam kết ấy đã tan như bong bóng xà phòng.

Như câu nói “Nhất sự bất tín, vạn sự bất tin”, khi niềm tin đã bị bào mòn, lời hứa mới khó tạo sức huy động nếu không kèm theo cơ chế minh bạch, trách nhiệm giải trình và cải cách thực chất.

“Lòng dân”: khẩu hiệu và thực tế

Tô Lâm, trong bài diễn văn của mình khẳng định “lòng dân” là yếu tố quyết định sự trường tồn của chế độ. Nhưng thực tế, lòng dân chưa từng hết nghiêng ngả dù chỉ một ngày. Vì nếu “lòng dân và ý đảng” chỉ là một, thì đã không có dòng người bỏ nước ra đi suốt 50 năm qua. Từ dòng người xếp hàng xin visa tại các tòa lãnh sự phương Tây, đến dòng người lẩn trốn trong các thùng container đầy nguy hiểm. Cho thấy:

Người dân vẫn giữ sự bất phục, bất tin vào chế độ.

Chính quyền chưa thực hiện hòa hợp – hòa giải dân tộc, bỏ lỡ cơ hội huy động nguồn lực trí tuệ và tài chính từ cộng đồng người Việt hải ngoại.

Các biện pháp đàn áp tiếng nói phản biện cho thấy chính quyền không thực sự tin vào dân, trái ngược với thông điệp “lấy dân làm gốc”.

Ngoại giao và vị thế quốc tế

Bài diễn văn khẳng định Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước” và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại thực tế của chế độ lại cho thấy ưu tiên rõ rệt cho các chính sách “pháo hạm”, “sói lang” đầy đe dọa và bất công từ Trung Cộng cho đến Nga:

Việt Nam không lên án cuộc chiến của Nga tại Ukraine, một hành động bị nhiều nước coi là xâm lược.

Mời quân đội các quốc gia độc tài như Trung Quốc, Nga, Lào, Campuchia tham gia duyệt binh mừng Quốc khánh, tạo hình ảnh Việt Nam như một thành viên của “câu lạc bộ” các chế độ chuyên chế.

Tất cả những điều ấy làm suy giảm vị thế quốc tế của Việt Nam trong mắt các quốc gia văn minh, dân chủ và hạn chế khả năng mở rộng quan hệ chiến lược đa phương dựa trên lòng tin thật sự.

Tóm lại, bài diễn văn của Tô Lâm được thiết kế để củng cố tính chính danh lịch sử, khơi gợi tinh thần đoàn kết, và đặt ra mục tiêu dài hạn. Nhưng khi đối chiếu với dữ kiện lịch sử và thực tế hiện tại, khoảng cách giữa lời nói và thực tế là quá lớn để mà có thể tạo dựng lòng tin từ công chúng về những điều hứa hẹn trong tương lai.

Nếu muốn biến lời hứa 2045 thành hiện thực, Tô Lâm cần phải thực hiện các chính sách:

Trung thực với lịch sử như sự thật vốn có;

Tri ân nhất quán, bất kể họ thuộc phe phái nào;

Chân thành thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc;

Thoát Trung, bảo đảm sự độc lập, tự chủ của nước nhà;

Những điều kể trên, xem ra đều quá khó đối với một chế độ độc tài, vốn vẫn đặt lợi ích vị kỷ lên trên lợi ích quốc gia, dân tộc.

Trong bối cảnh đó, bài diễn văn như một “nốt thăng lạc loài” giữa nguyện vọng tự do, dân chủ của nhân dân.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 5 Tháng Chín 2025

Đặng Đình Mạnh

Nguồn: www.facebook.com

Đỗ Lê Thường

Đỗ Lê Thường

Ra Mắt Tạp chí Thế Kỷ Mới (Song Chi)

Tạp chí Thế Kỷ Mới sẽ ra mắt vào trung tuần tháng 9/2025 và sẽ…

7 giờ

Đi thăm con rồng Đài Loan (Nguyễn Gia Kiểng)

Tôi vốn không thích con rồng. Tôi thấy nó hình thù gớm ghiếc chẳng có…

7 giờ

Thế giới đang đứng trước một cuộc đại khủng hoảng? (Chu Tuấn Anh)

Khi cường quốc số một lâm bệnh và mất sức đề kháng; cả thế giới…

20 giờ

Thư của vợ chồng Nông Thị Vàng (*) – Tư liệu lịch sử

(*) Nông Thị Vàng là em họ của Nông Thị Xuân-mẹ của Nguyễn Tất Trung-,…

1 ngày

Một số trí thức phản bác công khai chủ nghĩa Marx-Lenin (Âu Dương Thệ)

Một chuỗi những vấn đề gai góc diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị ĐH…

3 ngày