Bản chất tầm gởi của trí thức Việt Nam? (Nguyễn Hoàng Văn)

Sinh thời, khi bị chất vấn rằng “trí thức” mà sao lại mang cả cuộc đời ra ủng hộ một chế độ như cộng sản, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện – người rất thích danh xưng “sĩ phu hiện đại” — đã phủ đầu ngay rằng hãy chỉ cho ông một tổ chức chính trị khá hơn. [1]

Bằng lời đáp này ông Viện có thể đã chứng tỏ được tài ăn nói nhưng, trên tầm vóc trí thức, lại bộc lộ ngay sự bất xứng, tầm thường. Sính làm “sĩ phu hiện đại” mà vẫn chưa thoát ra khỏi não trạng của kẻ sĩ thời trung đại khi công danh sự nghiệp, hầu như, hoàn toàn phụ thuộc vào việc tìm minh chúa, như là loài tầm gởi.

Nguyễn Khắc Viện (1913-1997)

Tầm gởi là giống bán ký sinh, hemiparasitic, có thể tự quang hợp chất hữu cơ cho nhu cầu tăng trưởng nhưng sự sống vẫn phụ thuộc vào cây chủ và đó cũng là cách lập thân dựng nghiệp của kẻ sĩ ngày xưa. Thì họ cũng có chí lớn, có tài, có sở học nhưng, tất cả, phải gởi gắm vào một minh chúa như là cây chủ. Chủ mạnh khỏe, tốt tươi thì họ sung mãn, tươi tốt. Chủ mà yếu ớt, bệnh hoạn, họ sẽ toi đời.

Nếu Nguyễn Khắc Viện chỉ là một số lẻ nhỏ nhoi của lịch sử, nhắc tới thì thêm vài thông tin mà bỏ qua cũng chẳng sao thì, với cả những nhân vật đầy ảnh hưởng, gắn liền với một giai đoạn lịch sử nào đó, ít nhiều chúng ta vẫn có thể nhận ra quan hệ này. Như Nguyễn Trãi, một trí thức kiệt xuất mà tài năng thể hiện ở đủ khía cạnh quân sự, chính trị, ngoại giao và văn chương. Lỗi lạc như vậy mà, cuối đời, khi bị giải ra pháp trường, Nguyễn Trãi phải đau đớn thốt lên lời ân hận rằng sao trước đây không chịu nghe lời Đinh Phúc và Đinh Thắng, là hai viên hoạn quan mà tầm nhìn chỉ quanh quẩn trong mấy tường màn phủ kín nội cung! [2]

Để hiểu mấu chốt vấn đề thì cần bắt đầu từ quan hệ giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi, một quân sư và một minh chủ. Phụng sự dưới trướng một anh hùng, Nguyễn Trãi thể hiện tài năng lừng lẫy với chiến lược Bình Ngô, với chiến thuật “mưu phạt tâm công”, với “Bình Ngô đại cáo”, áng thiên cổ hùng văn, đi trước nhân loại đến bốn thế kỷ với ý niệm “quốc gia” v.v. [3] Nhưng khi Lê Lợi lên ngôi, trở thành Lê Thái Tổ, quan hệ lại khác đi, giữa thiên tử ngôi cao và bề tôi phía dưới. Lê Thái Tổ bây giờ đã là một ông vua “đa nghi hiếu sát”, nơm nớp cảnh giác với những nhân tài gần gũi nhất, lạnh máu trừ khử những công thần từng sinh tử với mình như Trần Nguyên Hãn, như Phạm Văn Xảo thì, trong sự căng thẳng và phức tạp của nền chính trị thâm cung, Nguyễn Trãi chỉ có thể thu mình, cam chịu. [4] Sử nhà Lê không ghi chép việc Lê Thái Tổ bỏ tù Nguyễn Trãi, tuy nhiên, trong một bài thơ còn truyền lại, Nguyễn Trãi từng ta thán cảnh tù ngục vào năm 50 tuổi mà, tính ra, là năm 1429, cái năm Trần Nguyên Hãn phẫn uất chết bên một bến sông. [5] Có như thế thì, khi thừa lệnh Lê Thái Tôn để viết văn bia về Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi đã cặn kẽ nhắc lại mười năm kháng chiến mà, với sáu năm làm vua, chỉ bàn cho có lệ. [6]

Sự thể còn tệ hơn với Lê Thái Tôn, một ông vua “tài giỏi biết giữ cơ đồ” nhưng “đam mê tửu sắc”, và nếu “chủ” đã vậy thì thân tầm gởi cũng sa sút theo. [7] Đầu tiên, vì chán ngán sau những mâu thuẫn về lễ nhạc với Lương Đăng, một hoạn quan, Nguyễn Trãi đã cáo quan, trở về quê ngoại với thú điền viên:

Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?

(Côn Sơn Ca)

Như là nhà tư tưởng đi trước nhân loại với ý niệm “quốc gia”, chúng ta có quyền kỳ vọng rằng, một khi đã rời bỏ chốn quan trường tàn khốc để thong dong hòa mình giữa thiên nhiên, Nguyễn Trãi có thể toàn tâm xây dựng nên một nền tảng học thuật nào đó và, có vậy, với sự phát triển cũng như áp dụng của những thế hệ tiếp nối, những thế hệ sau này như Phan Khôi, đâu phải tự ti về sự nghèo nàn khi luận về “Quốc học”?

Nhưng “thú điền viên” này, xét cho cùng, cũng là một chọn lựa chính trị. Khi quan trường trở nên bấp bênh, đầy may rủi, giới nho sĩ mới nhận ra rằng họ phải tính đường lùi, phải thủ thân để, lúc cùng đường, vẫn có thể “hưởng nhàn” như những bậc địa chủ. “Thú điền viên”, như thế, chính là trò thanh cao hóa cho một tính toán thực dụng. Không phải là ngẫu nhiên mà thú ấy chỉ nổi lên theo những áp lực gay gắt của chính trị cung đình. Cũng không phải ngẫu nhiên mà đỉnh cao của nó, nghệ thuật làm vườn, chỉ thăng hoa trong xã hội thuần túy nông nghiệp. [8] Và Nguyễn Trãi, sau khi về với thiên nhiên một thời gian ngắn, không chỉ quay lại mà còn nhúng tay sâu hơn vào chính trị của cung đình. Nguyễn Trãi lúc này, phải chăng, đã bất chấp lời khuyên của hai hoạn quan am hiểu việc hậu cung khi cho cô vợ trẻ vào cạnh vị vua nhỏ tuổi hơn nhưng háo sắc để dễ bề thao túng? [9]

Nhưng Nguyễn Trãi không đương đầu nổi với quyền lực hậu cung và đã trả giá đau đớn, thảm khốc. Mà chính thứ quyền lực này đã từng bước đẩy nhà Lê vào đường suy vong, mở cửa cho họ Mạc tiếm ngôi và, bấy giờ, lại nổi lên khuôn mặt của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nấn ná tìm minh chủ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phớt lờ những khoa thi cuối Lê đầu Mạc, đợi đến năm 1535 khi Mạc Đăng Doanh chứng tỏ được phẩm chất của một ông vua sau năm năm trị vì, mới chịu ra mặt thi thố và đậu Trạng Nguyên khi đã nửa đời người, 44 tuổi.

Hơn đời với cốt cách cao đạo nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải gánh chịu phần nào trách nhiệm cho cái cuộc đời mà mình nhìn bằng con mắt của kẻ vượt thoát, ngồi trên? Nho giáo suy tàn thì ông, một nho sĩ, ẩn mình chờ minh chúa. Ông, thậm chí, còn tiếp tay cho tình trạng chia cắt và nội chiến khi hành động như một kẻ dửng dưng bên lề, hoàn toàn không chủ kiến, hoàn toàn ba phải, thế lực nào cũng được ông ta cố vấn, vẽ đường. Ông khuyên Trịnh Kiểm nên giữ nhà Lê – “Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, nên tìm giống cũ mà gieo mạ” và nền chính trị lằng nhằng với ngôi Vua và phủ Chúa. Ông vấn kế cho Mạc Mậu Hợp “Tha nhựt quốc hữu sự cố, Cao Bằng tiểu địa, sổ thế khả duyên”, nhà Mạc lui về cát cứ ở Cao Bằng. Ông lại bày mưu cho Nguyễn Hoàng “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” và xứ Đàng Trong ra đời. Biết bao máu xương và tài nguyên đã bị vứt những xung đột giữa nhà Trịnh với nhà Mạc, đặc biệt giữa nhà Trịnh và nhà Nguyễn với bảy lần chiến chinh rải đều xuyên suốt một thế kỷ rưỡi?

Thời loạn, theo lý, là thời đại thai nghén nên những anh hùng nhưng cái thời nội chiến dằng dai này lại vắng hẳn những bóng dáng lồng lộng của hình mẫu “nho sĩ – anh hùng” của thời Lý – Trần, như một Phạm Ngũ Lão chữ nghĩa chẳng kém ai lại hiên ngang giữa núi sông với cây giáo cầm ngang, đằng sau là ba quân khí thế đằng đằng, lay động cả sao trời:

Hoành sáo giang sơn cáp kỹ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Vũ hầu, tức Gia Cát Lượng, không hổ thẹn khi nghe nhắc cái tên này là giấc mơ công danh của người trai trong lý tưởng “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Khi đích cuối, và cao nhất, là “bình thiên hạ” thì, lẽ thường, thế cuộc càng náo loạn, công danh của kẻ sĩ mới càng có cơ hội vinh danh thế nhưng vấn đề còn là bản chất của thời loạn. Với loạn ngoại xâm thì phân biệt chính – tà thực quá rõ ràng nên chọn lựa của người hùng cũng quá rõ ràng. Nhưng với loạn “nội xâm” thì chính nghĩa nhiều khi không đứng hẳn về bên nào và chân dung của “minh chúa” sẽ càng mờ mịt nên, trong bối rối, trong tuyệt vọng, kẻ sĩ đành thu mình ở mức “tu thân, tề gia”. Đây, có lẽ, chính là trường hợp của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thất bại khi dâng sớ lên Mạc Hiến Tông đòi nghiêm trị 18 lộng thần, Nguyễn Bỉnh Khiêm chán nản từ quan về quê “vui thú điền viên”, giữ cốt cách thanh cao mà cười cợt thế thái nhân tình.

Nghĩa là nếu không thể làm “người hùng” thì thôi, hãy làm “người hiền” nhưng đây chỉ là bước tiến-thoái của kẻ sĩ trong xã hội nông nghiệp thuần túy. Khi nội chiến đã là một quá khứ thật xa, đất nước không chỉ thu về một mối cho thương nghiệp và đô thị phát triển, chúng ta lại thấy sự hình thành của hình mẫu “nhà Nho tài tử”, như Nguyễn Công Trứ:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng…

(“Bài ca ngất ngưởng”)

Đầu tiên là một Nguyễn Công Trứ sĩ nhập thế với sự nghiệp trên đủ khía cạnh quân sự, kinh tế – xã hội và văn chương. Kẻ sĩ này thi thố tài năng chủ yếu dưới thời Minh Mạng, vị vua được xem là sáng suốt nhất triều Nguyễn với những cải cách hành chính, chính trị, quân sự, kinh tế. Nghĩa là, như đã nói, “cây chủ” đã là một ông vua sáng suốt thì kẻ sĩ dưới trướng cũng vinh quang theo.

Bên cạnh đó còn là một Nguyễn Công Trứ hào hoa với dáng dấp thị thành: “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng..”. Xã hội chỉ biết có ruộng đồng thì, có lên voi xuống chó, Nguyễn Công Trứ bất quá chỉ có thể rút lui và tìm quên với “thú điền viên”. Nhưng thương mại đã phát triển và thú vui đã chuyển về thị tứ thì kẻ sĩ mới phóng khoáng hơn, có thể tự cởi bỏ những phép tắc khô cứng trên khía cạnh “tu thân, tề gia”. Kẻ sĩ bây giờ không chỉ hướng đến cái hùng mà còn hướng đến cái tài, cái tình.

Rồi đến những va chạm với chủ nghĩa thực dân và Nho giáo lâm vào cảnh suy tàn. Từ đây, với làn gió mới từ phương Tây, kẻ sĩ lại vươn đến tinh thần duy lý và phê phán, có thể nhân danh tự do cá nhân để thách thức sự áp đặt của những luân lý truyền thống và thay đổi con người cùng xã hội. Đó là cuộc vận động đổi mới của Tự Lực Văn Đoàn: “Theo mới. Hoàn toàn theo mới không chút do dự”. Đó là cuộc vận động Duy Tân của Phan Châu Trinh, cũng là hoàn toàn đổi mới.Và đó, như là sự nhẫn nại của Phan Khôi khi mổ xẻ những giáo điều, những quan niệm cổ hủ v.v. Cơ hồ, một chân trời mới đã hé mở cho đất nước và cho con người nhưng, tiếc thay, lịch sử đã bị chặn đứng rồi kéo lùi với sự bạo hành của một thứ “tân Nho giáo”, cái ý thức hệ mà ông Nguyễn Khắc Viện nói là “khá” nhất.

“Khá” nhất mà nó, ý thức hệ cộng sản, triệt tiêu hoàn toàn những nỗ lực đổi mới. Nó dìm chết tự do, cái riêng tư và cái cởi mở trong tư tưởng và trong học thuật mà, bằng chứng rõ ràng, là chính ông Nguyễn Khắc Viện. Ông Viện được truy tặng Giải thưởng Nhà nước cho công trình sử học viết bằng Pháp ngữ Việt Nam, một thiên lịch sử nhưng đó, thực chất, là thứ viết theo đơn đặt hàng, viết theo chủ trương và nghị quyết, không có gì khả dĩ gọi là một tìm tòi hay phát hiện riêng. [10] Trong “thiên lịch sử”, ông ta trơ trẽn ca ngợi “văn phong súc tích, ngôn ngữ tinh tế” trong những “luận văn chính trị” của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp. Rồi ông ta xem đó như “những tác phẩm văn học đánh dấu một thời kỳ”. Và, y như khi Trần Huy Liệu ngoan ngoãn rập theo quan điểm bạo lực cách mạng của Lê Duẩn mà hạ nhục Phan Thanh Giản, ông ta lại hết lời ca ngợi Phan Bội Châu vì chủ trương bạo động trong khi hạ thấp Phan Châu Trinh đến mức thấp nhất, xem như một “nhà cải lương” bởi chủ trương “bạo động tất ngu” v.v. [11]

Hay như Hoàng Xuân Nhị, nhân vật Tây học đã đảm nhiệm vai trò Chủ nhiệm khoa Ngữ văn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội từ năm 1957 đến năm 1982. Được ca ngợi như là một “trí thức toàn đức toàn tài”, ông ta đã vứt bỏ nhân cách trí thức của mình khi cố làm một học trò ngoan của Joseph Stalin. [12] Ông trơ tráo kết luận rằng dân tộc Việt Nam chỉ “bắt đầu hình thành vào năm 1930 khi đảng cộng sản ra đời”, nghĩa là, tuổi dân tộc không thể cao hơn tuổi đảng hay, tính vào thời điểm tuyên bố, dân tộc Việt Nam chỉ có vỏn vẹn “23 năm văn hiến”. [13] Sự thật, như Đào Duy Anh đã chỉ ra, ông Nhị đã hiểu sai ý của Stalin và, do đó, đã sai về lịch sử, sai trầm trọng, và sai rất đáng khinh. [14]

Điều đáng chú ý là cả hai, Nguyễn Khắc Viện và Hoàng Xuân Nhị, đã từng chạy theo phát xít khi Đức Quốc Xã xâm chiếm nước Pháp và, điều này, nhìn từ góc độ tầm gởi, cũng chẳng có gì là lạ. Nếu ông Viện, sau này, theo cộng sản vì không thấy ai khá hơn thì lúc đó, ông có mở lòng với chủ nghĩa phát xít là cũng do chẳng tìm thấy ai khá hơn. Theo lối Phạm Quang Lễ, tức Trần Đại Nghĩa, vốn đã sang Đức từ năm 1942, tháng Ba năm 1943 ông Viện cùng ông Nhị và cùng nhiều bạn bè Việt Nam khác sang Berlin học tập hay huấn luyện bằng học bổng của Đức Quốc Xã rồi, tháng Ba năm sau, khi cùng trở lại Paris, lại cho ra đời tờ báo Nam Việt với lập trường thân phát xít mà, trong đó, ông Viện là thành viên biên tập cuồng nhiệt nhất. [15]

Đây là cách sinh tồn, là bám vào cây chủ “khá nhất” của từng giai đoạn, cái thói quen phò chính thống của trí thức Việt Nam? Hay đó là một sự “giác ngộ” trong sự hạn hẹp của nhận thức chính trị theo từng thời thế?

Trong thế thắng ban đầu của Đức Quốc Xã, những thành phần cực hữu Âu châu cuồng lên với cái tên Adolf Hitler. Họ tin rằng tên mị dân này có thể thống nhất Âu châu như thể là Charlemagne, hay Carolus Đại Đế, người đã, vào cuối thế kỷ thứ tám và đầu thế kỷ thứ chín, thống hợp nhiều sắc tộc Frank –thuộc dân tộc Đức ngày nay — sống dọc theo sông Rhine để đối đầu với Đế quốc Đông La Mã. Đến khi Đức xé bỏ hiệp ước bất tương xâm để tấn công Nga vào tháng Sáu năm 1941, họ lại xem đó là vị cứu tinh có thể giúp Âu châu dẹp tan chủ nghĩa cộng sản. Còn ông Viện? Ông Viện tôn sùng phát xít vì đâu, chúng ta khó mà biết được nhưng rõ ràng là ông ta đã vỡ mộng với phát xít và, y hệt loài tầm gởi, lại quay sang cộng sản. Và đến cuối đời, đầu thập niên 1980, khi vỡ mộng với cộng sản, ông chỉ biết viết “kiến nghị” như là kẻ sĩ xưa dâng sớ để rồi bị chính cái thể chế “khá” này rút phép thông công. [16]

Vỡ mộng phát xít thì theo cộng sản. Vỡ mộng với cộng sản thì nộp … kiến nghị. Nhưng kiến nghị có thẳng thắn hay quyết liệt đến mấy cũng chỉ để bàn những chuyện đã rồi và đây, cảnh dâng sớ hay gởi kiến nghị, bất quả chỉ tạo thêm chút cảnh sắc náo nhiệt vào cái chu kỳ khốn đốn của dân tộc vậy thôi. Mà đó lại là chu kỳ khốn đốn trong chiều hướng đi xuống bởi, nếu thời nay có lập lại y nguyên thời xưa, đó đã là một sự thụt lùi. Mà trò kiến nghị ngày nay, tự nó, càng là một bước thụt lùi. Có dâng sớ thì kẻ sĩ xưa, chủ yếu, dâng sớ lúc đương chức, lúc còn quá nhiều thứ để mất và, khi tiếng nói của mình không được tôn trọng, họ chấp nhận đánh mất bằng cách từ quan. Còn trí thức nay thì, phần đông, thường lên tiếng khi đã về hưu, không còn hay còn rất ít để mất.

Trong Vân đài loại ngữ Lê Quý Đôn đã dành ra chương “Sĩ Quy Loại” với 76 điều khoản về “cách xử sự của kẻ sĩ khi ra làm quan” và đây, thực chất, chính là một thứ “nghệ thuật làm quan”. Bây giờ, nếu sống lại, không rõ Lê Quý Đôn sẽ cập nhật thêm bao nhiêu nữa nhưng, rõ ràng, phải có thêm “nghệ thuật dâng sớ”, thứ nghệ thuật lên tiếng sao không bị thiệt thòi, bên cạnh một điều khác mà, nói theo Nguyễn Tuân, là “nghệ thuật sợ”.

Đất nước đã mất mát bao nhiêu tài nguyên, xương máu và thời gian mà vẫn chưa thấy đích, phần nào, cũng từ cái “nghệ thuật tồn tại” của những “trí thức” như thế. Trí thức mà không thể hiện trách nhiệm phê phán, vạch ra sự thật và dự báo, từ đầu. Trí thức mà không thấy đủ cánh rừng, chỉ tỉ mỉ giới hạn với từng thân cây, với cái trước mắt. Và trí thức mà, với cung cách vô nhân từ đầu, và từ cả lý thuyết, của phát xít hay của cộng sản, cũng không dự cảm được thảm họa mà chúng sẽ mang lại.

Chính vì thiếu những phẩm chất đó nên ông Nguyễn Khắc Viện mới nuôi mộng rồi vỡ mộng, ít nhất là hai lần. Bây giờ, rất nhiều “trí thức”, sau khi vỡ nhiều thứ “mộng” khác nhau, lại đắm chìm vào giấc mộng mới mang tên Donald Trump, một kẻ mà, về bản chất, cũng dân túy, cũng phản trí thức như Hitler, vị anh hùng của ông Viện thời trẻ. [17]. Nếu xưa, ở Âu châu, một số ít “trí thức” cánh hữu nhìn Hitler như là bậc Đại Đế có thể thống nhất Âu châu hay ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản thì “trí thức” Việt thời nay, phần đông, cũng nhìn Trump như thế. Họ xem Trump là bậc anh hùng có thể chặn đứng Trung Quốc và, tiện thể, có thể phăng chủ nghĩa cộng sản trên đất Việt Nam.

Nhưng Việt Nam hiện tại đâu còn là một thiết chế cộng sản nữa? Nó đang là một cơ chế lợi ích nhóm mà giới nghiên cứu gọi là “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (crony capitalism). Và ông Trump, như nhân loại đang chứng kiến, đang cố tình hủy hoại nền dân chủ Mỹ, đang chăm chăm biến nền tảng chính trị nước Mỹ thành một hệ thống “thân hữu” mang lại lợi nhuận cho gia tộc và vây cánh của mình.

Ông Nguyễn Khắc Viện, trong nửa cuộc đời còn lại, đã không dám hé môi dù chỉ một lời về quá khứ phát xít của mình. [18] Mai này, sẽ có bao nhiêu “trí thức” của chúng ta sẽ phải se mặt cúi đầu khi bị nhắc lại cái thời phò Trump này? Trước mắt, số lượng đông đảo của họ, và sự “kiên định” của họ, đang làm tôi thấy rõ hơn bản chất tầm gởi của trí thức Việt Nam, vừa khiến tôi quặn lòng nghĩ đến tương lai của đất nước mình. Khi những thành phần ưu tú như thế mà lại dễ dãi phung phí niềm tin như thế thì, dân tộc chúng ta, để được sống ngẩng cao đầu, còn phải đánh mất bao nhiêu cơ hội nữa?

Nguyễn Hoàng Văn

25/7/2025

Tham khảo:

1. “Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (1913 -1997) là một bác sĩ, một nhà văn, nhà báo, nhà sử học, triết học có tầm cỡ quốc tế. Sinh thời, ông thích hơn cả là danh xưng sĩ phu, một sĩ phu hiện đại với những cống hiến canh tân đất nước…” (“Nguyễn Khắc Viện và những tư tưởng canh tân đất nước”, Nguyễn Sĩ Đại): https://kinhtedothi.vn/nguyen-khac-vien-va-nhung-tu-tuong-canh-tan-dat-nuoc.html

Thông tin về cuộc chất vấn trên tôi thuật lại theo trí nhớ từ một bài viết cách đây khoảng 25 năm, hiện chưa truy lục lại được.

2. “Tháng 9 ngày 9 giết bọn hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng, vì khi Nguyễn Trãi sắp bị hành hình, có nói hối là không nghe lời của Thắng và Phúc”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Quyển XI Kỷ Nhà Lê, Thái Tông Văn Hoàng Đế.

3. Ý niệm quốc gia, như Đào Duy Anh đã tóm tắt trong Hán Việt từ điển: “Một cái tổ chức có đủ ba yếu tố: thổ địa, nhân dân và chủ quyền, ta thường gọi là một nước”.

Ý niệm này chỉ hình thành ở Âu châu vào thế kỷ 18 và đến với người Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Như từ thế kỷ 14 thì Nguyễn Trãi đã nêu ra ba yếu tố này trong “Bình Ngô Đại Cáo”:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

4. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Quyển X, Kỷ Nhà Lê, Thái Tổ Cao Hoàng Đế.

5. Nguyễn Lương Bích (2003 ), Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, NXB Quân Đội Nhân dân, trang 467.

6. Nguyễn Lương Bích, sđd, trang 141-142

7. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Quyển XI Kỷ Nhà Lê, Thái Tông Văn Hoàng Đế.

8. Trần Chí Hoa, “Viên lâm cổ đại”, trong Lịch sử Văn hóa Trung Quốc”, Đàm Gia Kiện chủ biên (1993) Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 726 – 744. Bản dịch của Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang, Phan Văn Các.

9. Tạ Chí Đại Trường (2004) Sử Việt đọc vài quyển, Văn Mới, California, trang 137. Theo tác giả có thể Nguyễn Trãi đã bỏ qua lời khuyên của Đinh Phúc và Đinh Thắng để tham gia sâu và trò hơi chinh trị nội cung khi đưa vợ mình là Thị Lộ vào cung để gần gũi Lê Thái Tôn.

10. Nguyễn Khắc Viện (2004) Ước mơ & Hoài niệm, NXB Nhà xuất bản Đà Nẵng trang 185.

Theo thú nhận của Nguyễn Khắc Viện (NKV) cuốn “lịch sử” này được viết theo yêu cầu của Đảng cộng sản Pháp, tóm tắt giai đoàn từ thời ký chống Pháp cho đến năm 1960.

11. https://baotiengdan.com/2017/07/19/to-gan-luan-ve-bac-si-nguyen-khac-vien/

và bài phản biện của Nguyễn Khắc Phê, em trai ông Nguyễn Khắc Viện: https://vanviet.info/thu-ban-doc/lai-bn-ve-nguyen-khac-vien-v-sch-viet-nam-mot-thin-lich-su/

Có thể tham khảo bản tiếng Việt tại: https://nhasachmienphi.com/viet-nam-mot-thien-lich-su.html

12. “Dấu ấn Hoàng Xuân Nhị” : http://daidoanket.vn/dau-an-hoang-xuan-nhi-558410.html

13. Trong hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm ( NXB Văn Nghệ TPHCM- 2002) Đào Duy Anh viết:

“Trong Tập san Đại học sư phạm số 5 thì ông Hoàng Xuân Nhị lại cho rằng mãi đến năm 1930 với sự thành lập của Đảng cộng sản Đông Dương ‘lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, trải qua mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam bắt đầu hình thành.’”. (trang 150)

Đào Duy Anh không nói rõ năm tháng phát hành, tuy nhiên suy diễn theo các thông tin trong bài thì tập san này phát hành vào đầu năm 1956.

14. Đào Duy Anh, sđd

Theo Đào Duy Anh thì ông Hoàng Xuân Nhị hiểu sai ý của Stalin.

Năm 1913 Stalin viết cuốn sách mà bản dịch Anh ngữ là Marxism and the national question, các tài liệu tiếng Việt dịch tên cuốn sách này là “Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc”. Tiếng Nga “Нация” (natia), trong tiếng Anh, Pháp và Đức cũng là “nation”, nếu dịch sang tiếng Việt là có thể dịch là “quốc gia” và “dân tộc”, tuy nhiên đây là hai khái niệm khác nhau.

Khái niệm “dân tộc” thì đã có từ lâu, còn khái niệm “quốc gia” – như là sản phẩm của cuộc cánh mạng kỹ nghệ và dân quyền tại Âu châu — chỉ đến với Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20. Stalin đã đưa ra nhiều cách giải thích mù mờ nên khiến nhiều người lẫn lộn.

Đầu tiên Stalin cho rằng “nation” là cộng đồng hình thành sau khi chấm dứt đời sống bộ lạc. Thế nhưng trong phần chính, khi nói về lịch sử các nước Âu châu, Stalin cho rằng để gọi là “nation” thì phải hội đủ 4 yếu tố chung: kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý, trong đó yếu tố kinh tế được xem quan trọng nhất.

Nhận ra điểm sai này nên năm 1929 Stalin cho xuất bản cuốn The National Question and Lenism để giải thích tiếp, cho rằng có nhiều loại “nation” trên thế giới, và loại “nation” đã nhắc trong cuốn sách năm 1912 là nói về các “nation tư sản”.

Đào Duy Anh cho rằng Hoàng Xuân Nhị tiếp tục hiểu sai ý của Stalin. Sau khi tham khảo Đại bách khoa toàn thư Xô viết, Hoàng Xuân Nhị khẳng định “Theo sự nghiên cứu của khoa học viện Liên Xô… thì trên thế giới chỉ có hai loại dân tộc thôi” ( dân tộc tư sản và dân tộc xã hội chủ nghĩa). (sđd tr.154 – 155).

15. Charles Keith, “Vietnamese Collaborationism in Vichy France”, The Journal of Asian Studies Vol. 76, No. 4 (November) 2017: 987–1008.

https://www.viet-studies.com/kinhte/VietnamVichyColla_Nov17.pdf

Giữa năm 1943 Nguyễn Khắc Viện cùng Hoàng Xuân Nhị, Lê Văn Thiêm, Trần Văn Du, Lê Viết Hương, Nguyễn Hoán, Phan Thuyết sang Berlin bằng học bổng của Đức Quốc xã. Tháng Ba năm sau thì ông trở lại Paris cùng một số bạn bè và cho ra đời tờ Nam Việt có lập trường thân Phát xít mà, trong thành phần biên tập, có cả Hoàng Xuân Mãn, anh ruột ông Hoàng Xuân Nhị. Trước đó thì Phạm Quang Lễ (tức Trần Đại Nghĩa) đã sang Đức làm việc trong ngành hàng không vào năm 1942.,

Nguyên văn tiếng Anh: “But this changed when several of members of the Amicale accepted scholarships in mid-1943 to travel to Berlin to study. The students (Trần Văn Du, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Thiêm, Lê Viết Hương, Nguyễn Hoán, Phan Thuyết, and perhaps others) received six thousand francs per month and room and board. They were following the lead of their friend and colleague Phạm Quang Lễ, an engineer recruited by German officials in 1942 from the École Nationale Supérieure de l’Aéronautique to work in the German aeronautical industry. French sources claim that a group known as “Studenwerh [most likely Studentenwerk] für Ausländer” (Services for Foreign Students) recruited the Vietnamese students to study in Berlin.”

Trong Ban biên tập Nam Việt có Hoàng Xuân Mãn, anh ông Hoàng Xuân Nhị.

16. “Bàn về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện”, Nguyễn Thanh Giang https://www.bbc.com/vietnamese/forum/story/2006/01/060125_nguyenkhacvien

17. “Trump’s America: Anti-Intellectual and Proud of It” https://archive-yaleglobal.yale.edu/content/trumps-america-anti-intellectual-and-proud-it

18. Nguyễn Khắc Viện, sđd, trang 15-20

Trong hồi ký này NKV không đề cập gì đến những chuyện này. NKV cho biết ông phát hiện bệnh ho lao từ đầu năm 1942, sau khi kết quả chẩn đoán được xác nhận, ông được đưa đến một dưỡng đường (Sanatorium) tại thành phố Grenoble, cách Paris 600 km. Sức khỏe hồi phục thì NKV lao ra làm “công tác Việt kiều” và cuối năm 1943 bệnh tái phát nặng nên phải mổ phổi, mất ½ khả năng thở, trong tình trạng này ông phải nằm yên một chỗ trong một năm, không nói chuyện, chỉ tập trung thở [Nguyễn Khắc Viện (2004)

Tuy nhiên hồ sơ lưu trữ Pháp cho thấy Nguyễn Khắc Viện chỉ nhập viện tại đây vào năm 1944.

Charles Keith, bđd https://www.viet-studies.com/kinhte/VietnamVichyColla_Nov17.pdf

Đỗ Lê Thường

Chuyển hóa về dân chủ trong hòa bình (Nguyễn Trần Đặng)

Chuyển hóa về dân chủ hoàn toàn có thể diễn ra một cách hòa bình…

10 giờ

Liên Hiệp Quốc báo động về các trung tâm lừa đảo trực tuyến ở Đông Nam Á (Phan Minh)

« Nạn buôn người đang tăng nhanh đáng báo động ở Đông Nam Á », đó là…

16 giờ

Nhìn lại một năm ông Tô Lâm làm Tổng Bí Thư ĐCSVN (Việt Echo)

Tại Hội nghị lần thứ 12, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII bế…

1 ngày

Câu Chuyện Của Cô Khổng Thị Hường (Đoàn Bảo Châu)

Câu chuyện của tôi thật sự rất dài và đầy uất ức, tức tưởi. Là…

2 ngày

Đảng của Tô Lâm bóc lột công nhân ra sao ? (TS Phạm Đình Bá)

(VNTB) – Nếu Đảng là đại diện cho công nhân, thì ai trong Đảng đang…

3 ngày

Kỷ nguyên mới của “nhà cải tổ” Tô Lâm mang hình thù gì ? (Chu Tuấn Anh)

Nếu để Tô Lâm mở ra một kỷ nguyên mới mà chắc chắn không phải…

3 ngày