”…Ông ngưỡng mộ chế độ quân phiệt Nhật và muốn dựa vào Nhật mà không thấy được rằng đó sẽ là một đại họa cho đất nước. Ông muốn đấu tranh bằng bạo lực dù không có bạo lực…”
Nguyễn Gia Kiểng
Một sự kiện mà mọi người đều đồng ý : sau 32 năm cả nước bị đặt dưới chế độ cộng sản, cuộc vận động dân chủ vẫn còn rất yếu, vẫn chưa có một tổ chức dân chủ có tầm vóc, mặc dầu đại đa số người Việt Nam đều muốn đất nước có dân chủ.
Sự kiện này cần được chú ý. Nếu ở trong nước không thể có một tổ chức dân chủ lớn vì chính sách đàn áp của đảng cộng sản thì ở hải ngoại tại sao cũng không có ? Như vậy phải kết luận rằng chúng ta chưa có đồng thuận, ít nhất chưa có ở mức độ cần thiết.
Đồng ý đất nước phải có dân chủ chưa đủ. Cái gì quá hiển nhiên không còn là đồng thuận. Vấn đề đồng thuận chỉ đặt ra khi có nhiều chọn lựa và chúng ta đồng ý với nhau trên một số chọn lựa. Đồng thuận dân chủ đòi hỏi chúng ta cùng có một quan điểm về nội dung của khái niệm dân chủ, về cách thiết lập dân chủ cho Việt Nam, về phương thức đấu tranh, những việc phải làm, những phương tiện phải có để giành thắng lợi cho dân chủ, và về một cơ cấu tổ chức của đội ngũ đấu tranh, đặc biệt là cơ cấu lãnh đạo.
Nếu hiểu như vậy thì đồng thuận đấu tranh là điều mà chúng ta vẫn phải tìm kiếm.
Trước hết phải có đồng thuận về bản chất của cuộc vận động dân chủ. Đây là một cuộc đấu tranh cách mạng. Chúng ta muốn thay đổi chính quyền và thay đổi chế độ, nhưng đó không phải là tất cả và cũng không thực hiện được nếu được lấy làm cứu cánh. Điều gốc rễ là chúng ta phải muốn xây dựng một xã hội mới đặt nền tảng trên một văn hóa chính trị mới và triết lý chính trị mới. Thay đổi chế độ và chính quyền chỉ là hậu quả. Chỉ đi tìm hậu quả mà không nắm được nguyên lý chúng ta sẽ không thành công.
Tôi không lý thuyết đâu. Hãy lấy một thí dụ : vấn đề lãnh đạo. Cho tới nay triết lý chính trị duy nhất mà chúng ta biết trong suốt dòng lịch sử là triết lý theo đó quyền lực chính trị là tất cả, và tâm lý của chúng ta chưa thay đổi bao nhiêu. Ngày xưa vua là trời, hay ít nhất cũng là người thay trời quyết định tất cả, không những quyết định đời sống hàng ngày mà quyết định cả đời sống tâm linh của thần dân. Ngày nay cũng thế, kẻ cầm quyền tự cho mình quyền suy nghĩ cho cả xã hội. Chính trị quyết định tất cả và cũng tập trung tất cả mọi vinh quang. Dân chủ đoạn tuyệt với triết lý chính trị này. Nó đặt xã hội dân sự lên trên quyền lực chính trị, nhà nước ở dưới và có vai trò phục vụ xã hội dân sự chứ không ở trên và khống chế xã hội dân sự. Sự cao cả và vinh quang không tập trung trong chính quyền mà ở mọi người, mọi nơi và mọi việc. Người ta có thể cao cả dù giữ bất cứ vai trò nào trong xã hội : nhà tư tưởng, nhà khoa học, nhà báo, nhà văn, giáo viên, thợ may, v.v. nếu làm giỏi, lương thiện và sáng tạo công việc mình làm.
Ở mọi hoạt động, kể cả chính trị, tất cả chỉ là vai trò và công tác, lãnh đạo chỉ là một công tác như mọi công tác khác. Các chế độ độc tài là hậu quả của triết lý chính trị cũ và sai. Nếu quyền lực chính trị là tất cả thì sẽ có những người muốn độc chiếm vì tham vọng và cũng vì để tự vệ. Chính vì chính trị ngạo mạn mà nó bị chiếm đoạt và khống chế và trở thành đối tượng của những tranh giành khốc liệt. Và vì quyền lực chính trị là tất cả mà sự tranh giành quyền lực lây lan ra mọi sinh hoạt. Chúng ta đều đã thấy trong mọi tổ chức, kể cả những tổ chức ái hữu và từ thiện, người ta tranh giành quyền lực với nhau một cách dữ dội. Ngay cả những người hoàn toàn thiếu khả năng củng cố giành vai trò lãnh đạo, với kết quả là gây đổ vỡ. Tình trạng sẽ khác hẳn nếu người ta quan niệm lãnh đạo như một vai trò trong nhiều vai trò khác, người lãnh đạo không phải là người vinh quang nhất và được kính trọng nhất mà chỉ là người hội được nhiều điều kiện nhất (sức khỏe, thời giờ, kiến thức, v.v.) để đảm nhiệm vai trò lãnh đạo trong một hoàn cảnh nào đó. Chúng ta sẽ tránh được biết bao nhiêu đổ vỡ và phí phạm. Thí dụ này cùng với nhiều thí dụ khác cho thấy là không gì thực tiễn bằng một lý thuyết đúng.
Đồng thuận này, nghĩa là cuộc vận động dân chủ là cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thay đổi không những chế độ và chính quyền mà cả tổ chức xã hội lẫn văn hóa và triết lý chính trị, có một hệ luận chắc chắn : những người lãnh đạo chủ chốt phải vừa là những người hành động vừa là những nhà lý thuyết. Đây có lẽ là điều khó khăn nhất và đã là nguyên nhân khiến cuộc vận động dân chủ dậm chân tại chỗ trong ba thập niên qua. Khó khăn không phải chỉ ở chỗ khó tìm ra được những con người như vậy mà còn ở chỗ người ta không hiểu như vậy. Nhưng lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới đã bao giờ có ngoại lệ đâu.
Đồng thuận thứ hai là nhất định phải thay đổi chính quyền này, không có giải pháp nào khác.
Một người bạn tôi, một trí thức lớn có địa vị cao trong xã hội Pháp và rất có tiếng tăm trong cộng đồng nói với tôi : “Tôi thấy chống đối không có lợi, cứ gặp tụi nó nói chuyện, tụi nó sẽ nghe”. “Tụi nó” đây là những người lãnh đạo cộng sản. “Tụi nó” chứng tỏ bạn tôi không ưa chế độ này và muốn thay đổi. Anh tự coi, và hình như cũng được coi, là một người dân chủ. Nếu có một cuộc bầu cử tự do chắc chắn anh ta sẽ bầu cho phe dân chủ. Cũng có thể khi cuộc đấu tranh cho dân chủ đã mạnh và chứng tỏ có thể thắng, anh ta sẽ tham gia, sẽ trở thành một trong những người lãnh đạo xuất sắc nhất và có thể sẽ trở thành bộ trưởng, thủ tướng hay tổng thống trong chế độ dân chủ sau này. Nhưng trong hiện tại và cho đến lúc cuộc đấu tranh cho dân chủ còn khó khăn không nên mong đợi gì ở anh ta. Anh ta đứng về phe muốn thay đổi dần dần từ bên trong, nghĩa là đứng về phía chế độ cộng sản. Hơn thế nữa với địa vị và uy tín của anh, lập luận “chống đối không có lợi” còn có tác dụng giải giới cuộc đấu tranh cho dân chủ. Những người như anh ta đã góp phần quan trọng khiến cuộc vận động dân chủ dậm chân tại chỗ trong hơn ba thập niên qua. Có thể họ không ý thức được nhưng họ là những đồng minh khách quan của chế độ cộng sản.
Phản bác họ không khó dù họ có thông thái đến đâu đi nữa. Họ đã đi theo tập quán bình thường của con người là kết luận trước lý luận sau. Họ kết luận vì những lý do nằm trong bản năng như sợ gian nguy, thích ân sủng và quyền lợi, rồi dùng kiến thức và lý luận để biện hộ sau.
Bạn tôi thừa thông thái để hiểu rằng những vấn đề nghiêm trọng và cấp bách đang được đặt ra cho đất nước chỉ có giải pháp trong một chế độ mới, với một chính quyền khác. Vấn đề tham nhũng : chưa ở nước nào và trong thời đại nào có trường hợp một chính quyền tham nhũng tự cải tiến để hết tham nhũng cả ; khi một chính quyền đã tham nhũng thì chỉ có một cách giải quyết là thay thế nó bằng một chính quyền khác.
Sự tụt hậu bi đát của đất nước trong cuộc cách mạng tri thức này phải chặn đứng và đảo ngược bởi vì đất nước giàu hay nghèo, vinh hay nhục, nghĩa là về lâu về dài còn hay mất, tùy thuộc ở cuộc tranh đua này mà vũ khí cơ bản là ý kiến và sáng kiến, những yếu tố chỉ có thể nẩy sinh và phát triển nơi những con người tự do, trong những xã hội dân chủ. Điều lấn cấn nơi nhiều người, kể cả một số trí thức khoa bảng, khiến họ không lên án một cách dứt khoát các chế độ độc tài là họ không ý thức được rằng trí óc con người là một tổng thể, khi một quyền tự do bị cấm đoán thì mọi khả năng đều bị ảnh hưởng. Một nhà khoa học có thể hoàn toàn không có ý định ứng cử vào quốc hội nhưng nếu bị cấm ứng cử, ông ta cũng không thể sáng tạo ngay trong địa hạt khoa học vì không còn là một con người tự do. Trong thực tế chế độ cộng sản này không phải chỉ cấm làm chính trị mà còn cấm đoán và kiểm soát rất nhiều thứ khác. Họ khống chế tất cả vì sợ rằng ngay khi một sinh hoạt được buông lỏng nó trở thành một môi trường chống đối. Đảng cộng sản cai trị bằng sự sợ hãi vì chính nó đang lo sợ.
Không ai phủ nhận bất công xã hội và chênh lệch giàu nghèo hiện nay là quá đáng. Bảy mươi lăm triệu người Việt Nam chia nhau khoảng 10 tỷ USD, trong một tổng sản lượng quốc gia (GDP) 45 tỷ USD, 35 tỷ USD “còn lại” thuộc vào non mười triệu người (trong đó phần lớn bị chiếm đoạt bời vài ngàn cường hào). Một số nhỏ có thể bỏ ra vài ngàn USD để vui chơi một buổi tốt trong khi đại bộ phận các gia đình Việt Nam sống lay lắt với 50 USD mỗi tháng. Tình trạng này không cho phép đại đa số thanh niên Việt Nam có sức khỏe và tiện nghi để học hỏi, nó cũng làm tan vỡ tình tự dân tộc, và sau cùng chính dân tộc nếu cứ tiếp tục.
Đó chỉ là một vài thí dụ. Dĩ nhiên “tụi nó” phải nghe bởi vì tình trạng báo động hiện nay chỉ là một sự thực. Nhưng nghe rồi làm gì ? Không thể đòi hỏi những người được ưu đãi thay đổi một thực trạng đang ưu đãi họ. Chúng ta không phải là Phật, là thánh. Đất nước chỉ có giải pháp để ra khỏi bế tắc và vươn lên với một chế độ khác và một chính quyền khác. Chính quyền khác đây không nhất thiết phải là sự đào thải toàn bộ nhân sự cộng sản. Đàng nào thì quân đội, công an, công chức, nghĩa là bộ máy nhà nước, cũng phải được duy trì. Cái phải thay đổi là lãnh đạo. Bộ máy lãnh đạo cũng không nhất thiết phải hoàn toàn mới nhưng phải đủ mới để có khả năng lấy những quyết định lớn và bảo đảm sự áp dụng. Chỉ có một cuộc đấu tranh rất mãnh liệt mới buộc được đảng cộng sản chấp nhận thay đổi này.
Chúng ta không thể tiết kiệm một cuộc đấu tranh cách mạng. Nhưng cuộc cách mạng này sẽ diễn ra như thế nào ?
Không dễ gì rút được kinh nghiệm lịch sử của các dân tộc khác. Các cuộc cách mạng tại các quốc gia không giống nhau. Khi các lực lượng dân chủ thắng tại Nam Mỹ rồi Đông Âu đã có những người hân hoan nghĩ rằng chế độ độc tài cộng sản sẽ sụp đổ tại Việt Nam, nhưng rồi sau đó chế độ cộng sản vẫn tiếp tục và người ta biện luận rằng đó là vì tình hình Việt Nam có nhiều điểm khác với các nước này. Đó là kiểu lý luận trái táo rơi nhưng trái sung không rụng bởi vì trái sung khác trái táo. Lối lý luận này không đưa chúng ta tới đâu cả. Kinh nghiệm của các dân tộc chỉ có lợi trong chừng mực chúng giúp ta rút ra những qui luật của đấu tranh chính trị, sau một quan sát khoa học và một cố gắng tổng hợp đúng đắn.
Trong khuôn khổ cuộc thảo luận này, tôi chỉ xin nhắc lại sơ lược một tiến trình cách mạng mà anh em chúng tôi trong Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã rút ra từ kinh nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới, khá lâu trước khi Liên Xô và các chế độ cộng sản Đông Âu sụp đổ. Theo tiến trình này thì có bốn điều kiện vừa cần vừa đủ để một cuộc cách mạng (hiểu theo nghĩa một cuộc thay đổi cả chế độ chính trị lẫn chính quyền) xảy ra, và sẽ xảy ra theo một tiến trình gồm năm giai đoạn.
Một cách tóm lược, bốn điều kiện đó là :
Nếu bốn điều kiện này hội đủ trong một quốc gia thì một cuộc cách mạng chắc chắn sẽ xảy ra, bất kể quốc gia đó giống hay không giống các quốc gia khác ở những điểm nào. Nói chung là sự kiện một đảng cầm quyền phân hóa và bị thù ghét không đủ để khiến nó phải sụp đổ. Người dân còn đồng ý phải thay đổi chứ không thể cải thiện chính quyền hiện có (nghĩa là không có vấn đề “cứ nói tụi nó sẽ nghe” như anh bạn tôi) và phải đồng ý thay đổi nó bằng cái gì. Chúng ta lại thấy một lần nữa là không có cuộc cách mạng chính trị nào có thể thành công nếu không có một cuộc vận động tư tưởng đi trước.
Quan trọng nhất là điều kiện thứ tư : có một tổ chức làm tụ điểm cho các khát vọng và cố gắng đổi đời. Điều kiện này cần được nói rõ hơn. Không phải tổ chức nào cũng có thể đảm nhiệm được vai trò kết hợp và động viên này. Trong tình trạng một xã hội tiền cách mạng có thể có rất nhiều tổ chức, thậm chí có tình trạng hỗn loạn tổ chức, mà không có tổ chức nào đảm nhiệm được vai trò này. Đó chính là tình trạng đã và đang xảy ra đối với cuộc vận động dân chủ và cũng là lý do khiến chúng ta dậm chân tại chỗ.
Tổ chức đầu tàu phải được xây dựng như thế nào ? Phương thức cụ thể có khác nhau trong mỗi nước và ở mỗi giai đoạn nhưng kinh nghiệm các cuộc vận động cách mạng đã thành công đều cho thấy là tiến trình xây dựng tổ chức đầu tàu này phải đi qua năm giai đoạn :
Tôi không đi vào chi tiết năm giai đoạn này ở đây, độc giả muốn hiểu thêm có thể đọc trong dự án chính trị Thành Công Thế Kỷ 21. Tiến trình năm giai đoạn này phù hợp với mọi cuộc vận động cách mạng đã thành công trên thế giới và cũng là một tổng hợp các nhận định rải rác trong các tác phẩm của các sử gia và các nhà nghiên cứu chính trị.
Điều cần nhấn mạnh là hai giai đoạn đầu, xây dựng cơ sở tư tưởng và tạo dựng đội ngũ cán bộ nòng cốt, chiếm gần hết thời giờ của cuộc đấu tranh cách mạng.
Điều cần đặc biệt lưu ý vì có một ngộ nhận lớn, là cố gắng động viên quần chúng. Sự hưởng ứng của quần chúng là điều kiện bắt buộc, nhưng không phải là công việc khó khăn nhất của đấu tranh cách mạng và cũng chỉ là giai đoạn cuối cùng trước khi tiến công giành thắng lợi. Cần phân biệt chuẩn bị quần chúng và động viên quần chúng. Tâm lý quần chúng cần được chuẩn bị, một phần như là phó sản của những cố gắng truyền bá tư tưởng mới ngay từ giai đoạn đầu, trong thời đại chúng ta chủ yếu qua thông tin và sách báo, một phần do chính những sai phạm của chính chế độ cần phải thay đổi, nhưng động viên quần chúng tham gia đấu tranh thay đổi xã hội là một điều khác. Ngày nay chúng ta có thể coi tâm lý quần chúng Việt Nam đã chín muồi. Vấn đề còn lại là động viên quần chúng tranh đấu và đây là vấn đề chỉ có thể đặt ra sau khi đã xây dựng xong tổ chức đầu tàu và đã hội đủ các phương tiện. Có thể nói sự hưởng ứng của quần chúng chỉ có vào lúc mà hầu như tất cả những cố gắng cam go nhất đã làm xong và thắng lợi đã chắc chắn.
Chúng ta thường lặp lại một cách máy móc “ở đâu có áp bức ở đó có chống đối và đấu tranh” mà quên rằng đấu tranh đó chủ yếu là của một thiểu số có lý tưởng và quyết tâm. Kinh nghiệm cũng như mọi khảo cứu đều xác nhận rằng một số người dù đông đảo tới đâu và hoàn toàn đồng ý là mình đang bị chà đạp, thậm chí đang đứng trước một nguy cơ lớn, cũng không đứng dậy đấu tranh. (Ai ngờ vực điều này nên nhớ lại những thảm kịch của những cuộc vượt biên trước đây. Hàng ngàn người trên một con tàu bị một bọn cướp biển chừng mười tên trấn lột, đánh đập, hãm hiếp, phá máy tàu. Tất cả đều căm thù đến tột độ và nếu đồng loạt phản ứng thì chắc bọn cướp sẽ bị tiêu diệt, nhưng mọi người đã thụ động). Quần chúng chỉ đứng dậy tranh đấu nếu có một tổ chức lãnh đạo và tổ chức này phải vừa rất gắn bó vừa đủ mạnh để quần chúng tin tưởng vào thắng lợi. Mọi kinh nghiệm cũng cho thấy sự tham gia của quần chúng sẽ tan biến nếu thắng lợi không đạt được một cách nhanh chóng. Phải chuẩn bị xong, hay ít nhất gần xong, những điều kiện cần thiết để giành thắng lợi rồi mới có thể và nên động viên quần chúng. Tất cả những cuộc cách mạng đều cần một tổ chức mạnh làm động cơ. Và tổ chức này chỉ có thể là kết quả của một cố gắng xây dựng thông minh và kiên trì, trong nhiều năm.
Trở lại với cuộc đấu tranh giành tự do và dân chủ. Ngộ nhận về bản chất và phương thức của cuộc đấu tranh này đã khiến nó dậm chân tại chỗ. Người ta không nhìn thấy vai trò cốt lõi và bắt buộc của tổ chức, hoặc thấy việc xây dựng một tổ chức quá khó khăn rồi tự đánh lừa mình và loay hoay đi tìm những “giải pháp” thay thế như vận động chữ ký cho một bản tuyên ngôn chung, những liên minh lỏng lẻo, những kết hợp vội vã chung quanh một vài nhân vật có tiếng tăm, v.v. Hoặc vì vô ý thức, người ta lạc quan cho rằng có thể nhanh chóng thành lập được một tổ chức lớn mạnh. Và người ta vội vã kêu gọi quần chúng đứng dậy khi chưa thành hình xong ngay cả một bào thai của một tổ chức. Tại sao những ngộ nhân này cứ tiếp tục mãi ?
Những thất bại liên tục và chồng chất đã không cho phép những người dân chủ rút ra bài học cần thiết có lẽ vì chúng ta bị ảnh hưởng quá nặng của lối đấu tranh lãng mạn truyền thống.
Ở đầu thế kỷ 20 chúng ta có hai nhà cách mạng lớn họ Phan, Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu. Hai ông này thường được quí trọng như nhau mặc dù họ rất khác nhau. Cái khác biệt giữa hai ông là sự khác biệt giữa cái đúng và cái sai. Phan Bội Châu sai hoàn toàn. Ông viết cuốn Khổng Học Đăng (đèn Khổng học) muốn lấy tinh hoa của Khổng giáo làm tinh thần phục quốc mà không ý thức được rằng đó là một ý thức hệ phải vất bỏ. Ông ngưỡng mộ chế độ quân phiệt Nhật và muốn dựa vào Nhật mà không thấy được rằng đó sẽ là một đại họa cho đất nước. Ông muốn đấu tranh bằng bạo lực dù không có bạo lực. Ông đấu tranh bằng tấm lòng và nhiệt huyết, bất chấp tư tưởng, viễn kiến và phương pháp. Ông là điển hình của lối đấu tranh lãng mạn. Tuy vậy sức thu hút của ông đối với thanh niên Việt Nam hơn hẳn Phan Chu Trinh. Hành động luôn luôn hào hứng hơn suy nghĩ. Việt Nam Quốc Dân Đảng hãnh diện được ông nhận làm chủ tịch danh dự, nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam lấy ông làm biểu tượng và mẫu mực. Không có gì ngạc nhiên nếu đất nước vẫn như hiện nay.
Cuộc vận động cách mạng dĩ nhiên đòi hỏi trái tim và nhiệt huyết nhưng nó còn đòi hỏi trí tuệ và một phân tích lạnh lùng về thực tại và các khó khăn, về đường lối và phương pháp.
Đã đến lúc chúng ta cần thắp một nén hương kính phục tấm lòng và khí phách của Phan Bội Châu. Rồi đoạn tuyệt với cách đấu tranh của ông. Khẩn cấp.
Nguyễn Gia Kiểng
Lịch sử đã chứng minh: Không có chế độ nào tồn tại lâu dài nếu…
Phản ứng chậm chạp của chính quyền Áo khiến dư luận phẫn nộ. Trong nhiều…
Để hiểu MAGA (Make America Great Again - Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở…
Ba nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam hiện đang bị giam cầm trong nhà…
Điều nghịch lý nằm ở chỗ, trong khi người dân Việt Nam là “chủ nhân…
Nếu như sự sụp đổ của Nepal hay Sri Lanka chỉ là những tiếng chuông…