Chúng ta đang sống trong một giai đoạn lịch sử đầy nghịch lý. Một chế độ đã cạn kiệt sinh khí nhưng vẫn tồn tại bằng quán tính, trong khi xã hội đang âm thầm chuyển động dưới lớp vỏ im lặng. Những gì đang mục rữa hôm nay không phải là đất nước, mà là một cơ cấu quyền lực đã hết lý do tồn tại. Cái chết của nó là điều tất yếu. Nhưng điều không tất yếu, và cần trí thức Việt Nam quyết định, là chúng ta sẽ làm gì sau đó.
Trần Khánh Ân
Kinh nghiệm lịch sử của các hệ thống chính trị tiêu vong đều cho thấy rằng không có một hệ thống nào có thể đứng vững khi niềm tin bên trong nó đã tan rã. Cũng như một cơ thể không thể sống nếu chính hệ miễn dịch quay sang tấn công nó, một bộ máy quyền lực bắt đầu tự hủy khi các thành phần của nó không còn tin vào tính chính đáng của nhau.
Những gì đang diễn ra trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay cho thấy rõ sự đổ vỡ ấy. Ung thư đã di căn tới não. Trong nhiều thập niên, guồng máy cầm quyền đã được vận hành bằng những nguyên tắc nội bộ. Người ta không tuân thủ hiến pháp, mà tuân thủ nguyên tắc tập thể ; không phục tùng nhân dân, mà phục tùng tập thể. Nhưng khi tập thể đó bắt đầu tan rã từ bên trong, mọi thứ sẽ sụp đổ rất nhanh chóng cùng lúc.
Sự bế tắc trong công tác nhân sự cấp cao của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không chỉ là một vấn đề kỹ thuật. Nó là biểu hiện của một căn bệnh chết người, đó là sự bất tín. Không ai tin ai. Không có một tiêu chuẩn chung nào ngoài sự sinh tồn. Các hội nghị trung ương trở thành những phiên tòa ngầm, nơi người ta tố cáo, triệt hạ và mặc cả hơn là thảo luận về tương lai đất nước. Cái gọi là nhất trí cao chỉ còn là lớp sơn mỏng che đậy một cuộc chiến âm thầm, khốc liệt, nơi quyền lực được trao đổi như một món hàng. Tình trạng đó cho chúng ta thấy một điều là hệ thống không còn sản sinh được những nhân tài cho Quốc gia, mà chỉ còn sản sinh ra những người quản lý sự sợ hãi. Khi chức vụ được quyết định bằng sự trung thành với cá nhân chứ không phải bằng khả năng, thì sự chia rẽ trở thành quy luật. Và khi những người cầm quyền bắt đầu tin rằng việc loại bỏ đối thủ là cách duy nhất để tồn tại, thì chế độ đó đang bước vào giai đoạn chót của tiến trình cáo chung.
Trong những hệ thống độc quyền, quyền lực luôn cần một lực lượng bảo vệ, không phải để bảo vệ quốc gia, mà để bảo vệ chính nó. Ở đây, quyền lực và bạo lực trở thành hai mặt của cùng một thực thể. Khi hệ thống mất chính danh, bạo lực được dùng để thay thế cho tính chính đáng. Và khi bạo lực trở thành ngôn ngữ chính trị duy nhất, thì sự phân rã là điều không thể tránh khỏi : các lực lượng được nuôi dưỡng để bảo vệ chế độ sẽ quay lại chống nhau để tranh giành phần còn lại của quyền lực. Đó là điều đang diễn ra : một cuộc đối đầu giữa hai bộ máy quyền lực : một bên đại diện cho sức mạnh vũ trang, một bên đại diện cho sức mạnh an ninh. Cả hai đều không còn dựa trên lý tưởng hay niềm tin, mà chỉ còn dựa trên toan tính quyền lực thuần túy. Mỗi bên đều tin rằng mình mới đủ khả năng giữ vững ổn định, và vì thế, cả hai cùng coi đối phương là mối đe dọa cho sự tồn vong của hệ thống.
Thực ra, sự đối đầu này không phải là một tai nạn chính trị, mà là kết quả tất yếu của cơ cấu quyền lực tập trung. Khi mọi quyền quyết định được gom lại trong tay một nhóm người, thì bất cứ sự dịch chuyển nào trong vị thế của họ đều có thể làm sụp đổ toàn bộ cấu trúc. Hệ thống ấy không biết cách tự đổi mới, mà chỉ biết loại bỏ. Và một khi không còn ai để loại bỏ ngoài chính mình, nó sẽ tự đào huyệt chôn mình. Lịch sử thế giới đã nhiều lần chứng minh rằng khi quyền lực trở thành con tin của chính những kẻ nắm giữ nó, sự sụp đổ không đến từ bên ngoài mà từ bên trong. Những đế chế tưởng như vững chắc đã tan rã không phải vì áp lực ngoại bang, mà họ không còn có thể tin nhau vì không còn lý tưởng chung để nhìn nhận nhau, vì không có một “Dự án cho tương lai chung” nào cho Đất nước thậm chí cho ngay cả tập thể họ. Họ chỉ đến với nhau vì miếng ăn và không dám rời khỏi mà càng dấn sâu hơn vì sợ các đồng chí của mình sẽ bách hại sau khi dừng lại.
Khi một hệ thống đi đến bế tắc mà không đủ can đảm để tự cải tổ, nó sẽ tìm đến giải pháp thỏa hiệp để cân bình. Nhưng thỏa hiệp trong một chế độ không có cơ chế cân bằng quyền lực không bao giờ là sự hòa giải, nó chỉ là sự trì hoãn của cái chết. Thỏa hiệp ở đây có nghĩa là chọn ra một nhân vật thứ ba, một người trung dung, nhằm tạm thời dàn xếp xung đột giữa các phe. Nhưng trung dung trong bối cảnh này không phải là đức tính chính trị ; nó là biểu hiện của sự sợ hãi, của một hệ thống không dám chọn con đường đúng, mà chỉ chọn con đường ít nguy hiểm nhất cho bản thân. Một người được chọn vì không ai ghét quá nhiều không thể là người lãnh đạo quốc gia. Một hệ thống mà tiêu chuẩn cao nhất là “ít xấu hơn người khác” đã tuyên án tử cho chính mình. Lịch sử chưa từng ghi nhận một cuộc cải cách nào được dẫn dắt bởi những người chỉ biết thỏa hiệp với cái sai.
Càng đáng buồn hơn, thỏa hiệp ấy không nhằm giải quyết khủng hoảng của đất nước, mà chỉ nhằm duy trì quyền lực của hệ thống. Họ không bàn về hướng đi cho dân tộc, mà bàn về việc ai có thể khiến các phe yên tâm nhất. Đó không còn là chính trị, mà là sự mặc cả quyền lực trần trụi. Đó là lý do tại sao trong một bài viết gần đây tôi đề nghị việc đầu tiên khi dân chủ hóa phải ngay lập tức trả tự do cho chính trị. Khi các cuộc họp trung ương chỉ còn để tính toán ai sẽ lên, ai sẽ ở lại, khi sinh mệnh của đất nước bị thu gọn thành những chỉ định, thì điều đó chứng tỏ rằng quốc gia không còn được điều hành, mà chỉ còn bị quản lý. Và một quốc gia bị quản lý như một công ty phá sản thì sớm muộn cũng sẽ tan rã.
Một hệ thống cạn kiệt tính chính danh chỉ còn ba con đường để đi. Một là cải tổ, hai là trì hoãn, và ba là tự hủy. Nhưng cả ba con đường ấy đều dẫn đến cùng một đích : sự kết thúc của mô hình cũ.
Kịch bản thứ nhất là cải tổ trong khuôn khổ, tức là một nỗ lực kiểu Gorbachev, thay đổi để cứu hệ thống nhưng không đủ để giải phóng con người. Cách làm này có thể tạo ảo giác về ổn định trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn lại đẩy chế độ vào khủng hoảng sâu hơn, vì nó thức tỉnh kỳ vọng mà không thể đáp ứng. Khi người dân thấy cửa mở mà vẫn bị ngăn, họ sẽ không còn sợ nữa. Và khi nỗi sợ tan đi, chế độ mất nền tảng cuối cùng.
Kịch bản thứ hai là thỏa hiệp quyền lực, nơi mà các phe đồng ý chia nhau chiếc bánh quyền lực để cùng tồn tại. Nhưng quyền lực không phải là tài sản, mà là niềm tin. Một khi niềm tin bị mất, thì không có sự chia chác nào có thể cứu vãn. Mỗi thỏa hiệp hôm nay chỉ là sự chuẩn bị cho phản bội ngày mai.
Kịch bản cuối cùng là tự hủy, tức là quyền lực được tập trung vào tay một người sử dụng bạo lực để dập tắt mọi bất đồng. Đó là con đường nhanh nhất dẫn đến sụp đổ. Khi sợ hãi trở thành chính sách, thì chính sách ấy sẽ quay lại nuốt chửng chính kẻ tạo ra nó. Một chế độ cai trị bằng công an có thể tồn tại một thời gian, nhưng không thể tồn tại mãi mãi, vì không có xã hội nào chịu được mãi sự khủng bố tinh thần.
Trong cả ba kịch bản, điểm chung là sự cáo chung của mô hình toàn trị. Chỉ khác nhau ở tốc độ và hình thức. Một bên sụp đổ trong ảo tưởng cải tổ, một bên chết trong sự phân rã, và một bên gục ngã trong tiếng hò reo của đám đông.
Hiện nay, cái mà đất nước này đang cần không phải là người lãnh đạo mới trong cùng một hệ thống cũ, mà là một tư tưởng chính trị mới. Không phải thay người, mà thay nguyên tắc. Không phải sửa chữa, mà xây lại nền tảng. Tinh thần dân chủ đa nguyên mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã đề nghị không phải là một khẩu hiệu, mà là một phương án sống còn, đó là xây dựng một đất nước Việt Nam dựa trên pháp trị, nhân quyền, tự do tư tưởng và trách nhiệm trong tinh thần hòa giải. Đó không chỉ là lý thuyết, mà là lựa chọn thực tế duy nhất để một dân tộc có thể đi tiếp.
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng không có hệ thống toàn trị nào tồn tại được trước sự đồng lòng của một dân tộc muốn sống như con người tự do. Cái chết của một chế độ không phải là thảm họa, mà là cơ hội để tái lập nhân phẩm. Đó là lý do tại sao, trong giờ phút này, điều quan trọng không phải là dự đoán ai thắng ai thua trong cuộc đấu quyền lực, mà là chuẩn bị cho điều sẽ đến sau nó. Một xã hội dân sự mạnh, một lực lượng trí thức dấn thân, một dự án chính trị dân chủ, đó mới là phần việc thực sự của những người yêu nước.
Một hệ thống sụp đổ không chỉ vì nó độc tài, mà vì nó hết lý do để tồn tại, nó là một thực tại bắt buộc phải qua đi. Khi những người cầm quyền không còn biết nói sự thật, và những người bị cai trị không còn muốn nghe họ nói, thì lịch sử sẽ lên tiếng thay cho tất cả.
Và khi ấy, những ai đã gieo sợ hãi sẽ gặt lấy sợ hãi ; những ai đã sống bằng dối trá sẽ bị chôn vùi trong dối trá. Nhưng những ai dám chọn con đường tranh đấu cho dân chủ, sẽ là những người đặt viên gạch đầu tiên cho một kỷ nguyên mới : kỷ nguyên của tự do, bao dung và khai mở.
Khi một chế độ bước vào giai đoạn chót của tiến trình cáo chung, câu hỏi quan trọng nhất không phải là mấy tháng nữa nó sẽ sụp đổ, mà là điều gì sẽ thay thế nó. Lịch sử Việt Nam từng chứng kiến quá nhiều lần thay đổi quyền lực mà không thay đổi bản chất cai trị. Những cuộc cách mạng bị cướp, những hy sinh bị phản bội, những khẩu hiệu được dùng để tái lập cùng một mô hình độc quyền. Nếu muốn thoát khỏi vòng lặp ấy, Việt Nam cần một “Dự án chính trị” cho tương lai chung của Đất nước, một lộ trình chuyển hóa không dựa trên trả thù hay hận thù, mà dựa trên tinh thần hòa giải để tái lập nhân phẩm con người và xây dựng một trật tự dân chủ thật sự.
Trong số các mô hình dân chủ trên thế giới, dân chủ đại nghị là hình thức thích hợp nhất với hoàn cảnh Việt Nam, một xã hội với lịch sử nhiều hận thù và chia rẽ, đã bị cai trị bằng quyền lực tập trung quá lâu và cần một thể chế bảo đảm rằng không ai, dù được bầu lên, có thể độc quyền ý chí quốc gia.
Trong mô hình đại nghị, quyền lực được chia nhỏ và giám sát chặt chẽ. Thủ tướng do Quốc hội bầu ra và có thể bị thay thế khi mất tín nhiệm. Đó không chỉ là một cơ chế hành chính, mà là một nguyên tắc đạo đức chính trị : không ai có quyền nếu không còn được nhân dân tin tưởng. Việt Nam đã từng bị tê liệt bởi mô hình “người đứng đầu tuyệt đối”, nơi quyền lực tập trung vào một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ được xem là trung tâm trí tuệ. Hệ quả là đất nước trở thành tài sản riêng của một tầng lớp quyền lực tự phong, còn người dân bị hạ xuống thành đối tượng quản lý. Dân chủ đại nghị phá vỡ trật tự giả tạo ấy. Nó thay thế ý chí của lãnh tụ bằng ý chí của Quốc hội, thay thế sự lãnh đạo tập trung bằng trách nhiệm phân quyền, và thay thế “đảng tính” bằng tính chính danh của lá phiếu. Đó là một cuộc cách mạng yên lặng nhưng căn bản, một cuộc cách mạng trong tư duy chính trị, nơi con người trở lại vị trí trung tâm của trật tự xã hội.
Nhiều nước sau khi thoát khỏi độc tài đã rơi vào tình trạng dân chủ giả hiệu, tức là có bầu cử nhưng không có quyền lực của pháp luật ; có Quốc hội nhưng không có nghị sĩ độc lập ; có tự do báo chí nhưng không có quyền tự do tư tưởng. Nguyên nhân là vì họ chỉ thay đổi hình thức mà không thay đổi nguyên tắc tổ chức quyền lực. Nếu vẫn duy trì cơ chế tổng thống tập trung quyền lực, hoặc để các nhóm lợi ích chi phối chính trị, thì xã hội sẽ chỉ thay ông vua này bằng ông vua khác. Dân chủ đại nghị bảo đảm rằng quyền lực luôn nằm trong tay tập thể được giám sát, chứ không bao giờ rơi vào tay cá nhân. Nó buộc mọi chính phủ phải chịu trách nhiệm hàng ngày, chứ không phải 5 năm một lần. Chính cơ chế đó khiến các nước Bắc Âu, Nhật Bản, Đức… duy trì được nền dân chủ ổn định.
Một Việt Nam dân chủ tương lai không cần một “vị cứu tinh”, mà cần một cơ chế bảo đảm rằng sẽ không bao giờ có ai tự cho mình là cứu tinh nữa. Đó chính là tinh thần của dân chủ đại nghị.
Một trong những thảm kịch lớn nhất của xã hội Việt Nam hiện nay là sự đảo ngược đạo đức chính trị. Trong môi trường độc quyền, người ta được tuyên dương vì trung thành chứ không phải vì có năng lực. Cấp dưới không dám phản biện, trí thức không dám nói thật, vì nói thật có thể bị xem là phản bội. Dân chủ đại nghị khôi phục lại phẩm giá công dân bằng cách thay trung thành bằng trách nhiệm. Nghị sĩ không trung thành với thủ tướng, mà trung thành với cử tri. Chính phủ không trung thành với đảng, mà trung thành với hiến pháp. Nhà báo không trung thành với quyền lực, mà trung thành với sự thật.
Không có dân chủ nếu không có đa nguyên. Nhưng đa nguyên không chỉ là sự tồn tại của nhiều đảng phái, mà là sự công nhận rằng không ai có độc quyền về chân lý chính trị. Mỗi tư tưởng, mỗi quan điểm, dù khác biệt, đều có quyền được tồn tại và được tôn trọng trong không gian công cộng. Dân chủ đại nghị là thể chế tự nhiên nhất của tinh thần đa nguyên, vì nó buộc các lực lượng chính trị phải đối thoại, phải thỏa hiệp trong minh bạch. Không ai có thể cai trị một mình, và đó chính là bảo đảm lớn nhất cho tự do.
Chúng ta đang sống trong một giai đoạn lịch sử đầy nghịch lý. Một chế độ đã cạn kiệt sinh khí nhưng vẫn tồn tại bằng quán tính, trong khi xã hội đang âm thầm chuyển động dưới lớp vỏ im lặng. Những gì đang mục rữa hôm nay không phải là đất nước, mà là một cơ cấu quyền lực đã hết lý do tồn tại. Cái chết của nó là điều tất yếu. Nhưng điều không tất yếu, và cần trí thức Việt Nam quyết định, là chúng ta sẽ làm gì sau đó. Nếu Việt Nam tiếp tục tìm kiếm một người mạnh mẽ, một bàn tay sắt, thì lịch sử sẽ lặp lại với một hình thức khác. Nhưng nếu Việt Nam đủ sáng suốt để lựa chọn con đường dân chủ đại nghị, con đường của lý trí, pháp trị và phẩm giá, thì lần đầu tiên trong hơn một thế kỷ, dân tộc này sẽ thật sự được làm chủ vận mệnh của mình.
Đó không chỉ là một mô hình chính trị. Đó là lời khẳng định rằng con người Việt Nam xứng đáng được sống là con người tự do. Đó cũng là kỳ vọng lớn lao mà anh em Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chúng tôi muốn chia sẻ với mọi người Việt Nam.
Trần Khánh Ân
(16/11/2025)
Sự thật có thể phức tạp và đôi lúc nhàm chán. Thế nhưng, bằng cách…
Một nền dân chủ – Canada – trả lại quốc tịch cho hai đứa trẻ…
Khi đưa đất nước vào chế độ công an trị, dù là vì một lý…
“Lai” là vị lai, chỉ chuyện của tương lai, “khứ” là quá khứ, chuyện đã…
Lịch sử đã chứng minh: Không có chế độ nào tồn tại lâu dài nếu…
Phản ứng chậm chạp của chính quyền Áo khiến dư luận phẫn nộ. Trong nhiều…