Sau Hiệp Định Genève năm 1954, người Hoa tại Việt Nam mất điểm tựa chính trị của chính quyền thuộc địa Pháp. Với chính quyền mới tại miền Nam, hơn 800.000 người Hoa lo âu chờ đợi một sự thay đổi thuận lợi cho công việc kinh doanh của họ đã có từ trước. Dân cư gốc Hoa từ các tỉnh lỵ đồng bằng sông Cửu Long thu gọn tài sản đổ về Sài Gòn – Chợ Lớn định cư.
Chính phủ của thủ tướng Ngô Đình Diệm, năm 1954, không công nhận những đặc quyền mà người Pháp đã dành cho người Hoa sinh sống tại miền Nam. Trong những năm đầu, sau khi tạm giải quyết những vấn đề về an ninh trật tự trong nước, chính phủ Ngô Đình Diệm đặt trọng tâm vào việc giải quyết những vấn đề về an sinh xã hội và phát triển kinh tế. Ngoài việc hội nhập số người di cư từ miền Bắc (hơn 800.000 người), chính phủ kêu gọi người Việt và những cộng đồng chủng tộc lớn như người Hoa, người Khmer và các sắc tộc Thượng Tây Nguyên tiếp tay với chính quyền mới tham gia xây dựng đất nước.
Hội nhập người Hoa được xem là vấn đề khó nhất. Do có mặt từ lâu và chịu khó làm việc, người gốc Hoa đã xây dựng xong hạ tầng cơ sở và đã nắm giữ những khâu thương mại quan trọng trong nền kinh tế miền Nam. Trước đó, người Hoa còn được chính quyền thuộc địa Pháp cho hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi nên luôn tìm cách bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi đó. Trong những ngày đầu của chế độ, người Hoa tỏ ra sẵn sàng hỗ trợ chính quyền mới với hy vọng được giữ những đặc quyền đã có từ trước, nhưng tình trạng này không kéo dài được lâu.
Năm 1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm muốn người gốc Hoa giữ một vai trò tích cực hơn trong sinh hoạt kinh tế quốc gia. Qua nhiều lần trao đổi, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa giải thích rất rõ nhu cầu phát triển đất nước : người Hoa ngoài khả năng thương mại cần phải phụ giúp chính quyền nhiều hơn trong việc phát triển kỹ nghệ vì là thành phần có nhiều khả năng nhất về vốn. Kỹ nghệ trước đây thuộc đặc quyền của người Pháp, người Hoa chỉ được tham gia một cách hạn chế trong công nghiệp nhẹ. Tuy chỉ được tham gia hạn chế, người Hoa vẫn hơn người Việt về khả năng lẫn kinh nghiệm. Doanh nhân Việt Nam hoàn toàn vắng mặt dưới thời Pháp thuộc.
Để tránh lệ thuộc vào ngoại bang, chính phủ Ngô Đình Diệm muốn tất cả những hoạt động kinh tế phải do người Việt chủ động làm lấy. Muốn được vậy, chính phủ trước hết phải định nghĩa thế nào là người Việt.
Dụ số 10 ngày 7/12/1955 qui định tất cả những ai được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều là người Việt Nam. Với định nghĩa này tất cả những trẻ em gốc Hoa, kể cả con cái của Hoa kiều, đều là người Việt Nam. Chủ ý của thủ tướng Ngô Đình Diệm là muốn những người Hoa sinh sống tại Việt Nam chia sẻ những quyền lợi và trách nhiệm dân sự như bao công dân khác trong một đất nước vừa mới có độc lập.
Nhưng người Hoa chưa sẵn sàng hợp tác : thứ nhất, họ không muốn mang quốc tịch Việt Nam ; thứ hai, họ đa số là thương gia hơn là kỹ nghệ gia nên không nhìn thấy tầm quan trọng nhu cầu phát triển kỹ nghệ, một lãnh vực mà họ chưa có nhiều kinh nghiệm, đã tỏ ra thờ ơ, không mấy nhiệt tâm. Một số người còn lý luận rằng Việt Nam Cộng Hòa và Trung Hoa Dân Quốc chưa có ký kết hay thỏa thuận gì về quốc tịch của những người Hoa sinh sống tại miền Nam, hơn nữa Đài Loan là một quốc gia chống cộng mà chế độ miền Nam cần học hỏi kinh nghiệm, và Hoa kiều đang nắm giữ một số khâu kinh tế quan trọng tại miền Nam, chính phủ mới rất cần sự hợp tác của Đài Loan do đó sẽ không dám thi hành luật quốc tịch và sẽ phải nhượng bộ nếu muốn được giúp đỡ để phát triển kinh tế kinh tế.
Đối với thủ tướng Ngô Đình Diệm đây là một thái độ bội bạc. Ông cho rằng người Hoa muốn làm loạn và cố tình không muốn hiểu rằng nền kinh tế non nớt của Việt Nam rất cần sự hợp tác của họ. Sau khi bàn thảo với các thành phần bộ trưởng, thủ tướng Ngô Đình Diệm quyết định ban hành hai đạo dụ về sự hội nhập của người Hoa vào xã hội miền Nam. Dụ số 52 được ban hành ngày 29/8/1956, dụ số 53 ngày 6/9/1956. Cả hai sẽ chính thức áp dụng ngày 25/10/1956.
Dụ số 52 qui định Hoa kiều sinh sống tại miền Nam phải mang quốc tịch Việt. Khi có quốc tịch, họ được tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Người Hoa phải Việt hóa tên họ như Trịnh, Quách, Mạch, Lâm, Giang, Diệp, Lưu, Vương, Hà, Hứa, Mã, Lý, Trần, Trương, v.v…, và không được xưng các tên ngoại quốc hay tên gọi riêng như Chú, A, Chế… kể cả bí danh trong những văn kiện chính thức. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa phải viết bằng Việt ngữ.
Dụ số 53 cấm người ngoại quốc không được hành 11 nghề : buôn bán cá thịt, chạp phô, than củi, nhiên liệu, tơ sợi, trung gian mua bán, kim loại, lương thực, chuyên chở, xay gạo và dịch vụ. Đạo dụ này chỉ đặc biệt nhắm vào thành phần chủ nhân, thương gia người Hoa. Thành phần kỹ nghệ gia và người Hoa hành nghề tự do lai Việt hay có vợ Việt không nằm trong diện chế tài này, được bãi miễn và có thể tiếp tục kinh doanh dưới tên vợ, tên bạn hữu là người Việt với điều kiện phải hợp thức hóa bằng một văn kiện hộ tịch chính thức.
Ngày 26/9/1956, văn kiện số BKT/NC-4318 của Bộ Kinh Tế qui định những biện pháp cụ thể để thi hành dụ 53.
Qua hai đạo dụ này, thủ tướng Ngô Đình Diệm muốn người Hoa sinh sống tại Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội Việt Nam như mọi công dân khác. Ông cho rằng người Hoa không có lý do gì sống bên lề một xã hội mà trong đó họ vui hưởng đầy đủ quyền lợi của một công dân như quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, tự do cư trú, tự do đi lại.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa rất cần sự tham gia của tất cả công dân để góp phần xây dựng lại một đất nước vừa mới có độc lập lại vừa chống cộng. Đây là một công tác lớn lao đòi hỏi sự góp sức của toàn dân, trong đó có cộng đồng người Hoa. Chính quyền miền Nam không muốn bị cộng đồng người Hoa và Đài Loan làm áp lực nên đã không nhượng bộ. Thủ tướng Ngô Đình Diệm muốn áp đặt uy quyền và luật pháp của quốc gia trên toàn thể những cộng đồng dân tộc đang sống trên lãnh thổ miền Nam.
[Trong khi đó tại Cambodge (Campuchia), một quốc gia lân bang cũng vừa mới có độc lập, người Hoa sinh sống tại đây đã rầm rộ xin nhập tịch, nhiều đến nỗi chính phủ của hoàng thân Sihanouk phải ban hành nhiều biện pháp hạn chế sự nhập tịch].
Ngày 24/10/1956 thủ tướng Ngô Đình Diệm đắc cử tổng thống ; chương trình Việt hóa sinh hoạt kinh tế vẫn tiếp tục. Ngày 28/11/1956, ông Nguyễn Ngọc Thơ, bộ trưởng quốc gia đặc trách kinh tế mời họp tất cả những đại diện nghề nghiệp người Hoa của Văn Phòng Thương Mại Chợ Lớn để nói rõ chính sách quốc tịch của chính phủ. Mặc dù rất cần sự hợp tác của họ, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã đưa ra lời cảnh cáo : “Những người ngoại quốc nào còn muốn tiếp tục hoạt động kinh thương, vấn đề chính yếu là phải giải quyết cho xong vấn đề quốc tịch. Đừng nghĩ rằng chính phủ sẽ không có biện pháp đối với những ai không muốn tiếp tục hành nghề và chịu thất nghiệp. Giải pháp đã có sẵn, nó nằm trong tầm tay của mỗi quí vị và các quí vị hãy tự quyết định lấy”.
Thật ra tại Việt Nam, người Hoa kịch liệt phản đối chính sách hội nhập này vì chưa được chuẩn bị tinh thần để sống dưới sự quản trị của người Việt. Họ cho rằng hai đạo dụ vừa nói trên có nội dung bài Hoa và không cho họ quyền chấp nhận hay không chấp nhận luật quốc tịch. Tòa tổng lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc tại Sài Gòn can thiệp để xét lại việc ban hành đạo dụ 52 và 53. Người Hoa và Đài Loan tin rằng chính quyền Việt Nam, đang bận tâm chống cộng cần tranh thủ sự ủng hộ của thế giới tự do, sẽ nhượng bộ. Tổng thống Ngô Đình Diệm bác bỏ lời yêu cầu này và quan hệ giữa hai nước bị đình trệ.
Tại các tỉnh, chính quyền địa phương triệt để thi hành dụ 52 về chính sách quốc tịch và dụ 53 về việc kinh doanh của ngoại kiều. Tại Biên Hòa, lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh của thương gia Hoa kiều được áp dụng trước ngày 6/9/1956 một ngày rưỡi nhưng họ vẫn được quyền giữ hàng tồn kho. Các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Rạch Giá, thương gia Hoa kiều có một tuần để sang nhượng cơ sở cho người Việt. Doanh nhân Hoa kiều tại các tỉnh Khánh Hòa, Sa Đéc và Long Khánh có thời gian 11 ngày để giải tỏa kho tàng hay sang nhượng cho người Việt. Thủ Dầu Một gắt gao hơn, 25 người bán thịt phải dẹp cửa hàng trong vòng 24 giờ, 13 tiệm vải, 9 tiệm tạp hóa mà chủ nhân là người Hoa phải giải tỏa sau 72 giờ, 20 chủ tiệm Hoa kiều khác phải đổi nghề sau 18 ngày. Thành phố Mỹ Tho đóng cửa hơn 300 xí nghiệp, những tiệm tạp hóa do Hoa kiều sở hữu phải tìm cho ra người thay thế trong vòng một tháng, v.v… Theo báo cáo của Phòng Thương Mại Chợ Lớn, trong tháng 10/1956, có tất cả 976 tiệm của Hoa kiều tại Sài Gòn – Chợ Lớn có đăng ký bị đóng cửa, 2.860 người mất việc, kẹt vốn hơn 44 triệu đồng.
Năm 1957, cảnh sát tại Sài Gòn bắt giữ nhiều người Hoa, tịch thu thẻ căn cước Đài Loan và tự động cấp cho họ thẻ căn cước Việt Nam, bất kể ý muốn của họ. Nhiều địa phương khác cũng có hành động tương tự. Tờ Tin Điện, ngày 1/3/1957, đăng tin : “Tại Cần Thơ kể từ ngày 8/3/1957 chính quyền sẽ phạt vạ từ 200 đến 2.000 đồng (tương đương với 6 đến 60 USD thời đó) cho những người Hoa nào không có quốc tịch Việt Nam”.
Ngày 19/7/1957, ông Nguyễn Văn Vàng, giám đốc Nha Cảnh Sát Sài Gòn – Chợ Lớn, triệu tập 150 thương gia lớn gốc Hoa và cho biết họ chỉ có thể mở lại các cơ sở làm ăn khi nào có quốc tịch Việt hoặc chịu nhượng cho vợ con là người Việt đứng tên, nếu từ chối họ có thể bị trục xuất về Đài Loan. Một số đã tuân hành, một số khác nại cớ không đủ vốn để mở cửa tiệm và không làm gì cả. Thời hạn chót để xin vào quốc tịch liên tiếp bị dời lại, ban đầu là 22/3, rồi 21/6 và sau cùng là ngày 10/8/1957. Tất cả người Minh Hương trong thời gian này đều có quốc tịch Việt Nam. Về phía Hoa kiều chỉ có từ 80 đến 100.000 người xin gia nhập quốc tịch.
Theo số liệu của Nha Thống Kê Sài Gòn, trong năm 1955 có 620.858 người Hoa trên toàn lãnh thổ [thống kê của Đài Loan ghi nhận có 800.200 người Hoa sinh sống tại miền Nam năm 1955], năm 1958 còn 123.638 người, tài liệu này không kể người Minh Hương. Con số khác biệt là 497.220 người, trong số này có gần 235.000 người đã xin nhập tịch, những người còn lại chưa quyết định chờ sự can thiệp của Đài Loan.
Theo báo cáo của tòa Tổng lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc tại Sài Gòn, cho đến ngày 19/7/1957 đã có 52.144 người xin hồi hương, phía Việt Nam cho biết chỉ có khoảng 3.000 người Hoa đã hoàn tất hồ sơ hồi hương. Chuyến bay hồi hương đầu tiên được thực hiện ngày 2/8/1957. Những người này vẫn còn bị rắc rối vào phút chót tại phi trường vì số tiền mang theo quá nhiều (chỉ được đem theo 400 đồng hay ngoại tệ tương đương) và phải đóng 500 đồng thuế xuất cảnh.
Tháng 7 và 8/1957 là những tháng quyết định cho chế độ miền Nam. Toàn bộ sinh hoạt kinh tế của người Hoa bị ngưng đọng. Vài ngày sau khi hai đạo dụ trên bắt đầu có hiệu lực, người Hoa ồ ạt đến các ngân hàng rút hết tiền ký thác, tổng số tiền rút ra từ tháng 11/1956 đến tháng 7/1957 từ 800 triệu đến 1,5 tỷ đồng, tương đương 1/6 lượng tiền mặt đang lưu hành trong nước. Đồng bạc Việt Nam tại thị trường chứng khoán Hồng Kông liên tiếp bị mất giá từ 35 đồng/1 USD (1956) tăng lên 90 đồng (1957) và 105 đồng trên thị trường “tự do” (chợ đen). Thương gia buôn bán thịt và vải chống đối mạnh nhất, những người bán thịt đóng cửa tiệm và chuyển sang nghề làm thịt nguội, những người bán vải tích trữ vải để sau đó tuông ra bán trên thị trường chợ đen.
Hoa kiều trong vùng Đông Nam Á, nhất là Singapore và Hồng Kông, làm áp lực với chính quyền Việt Nam bằng cách tẩy chay hàng hóa xuất khẩu không do người Hoa bán. Hồng Kông từ chối mua 40.000 tấn gạo đã ký hợp đồng trước đó, số gạo này được chở qua Singapore và cũng bị từ chối mua. Báo chí phát hành bằng tiếng Trung Hoa trong vùng liên tiếp đả kích chính sách quốc tịch cưỡng bách của miền Nam, nhất là các báo xuất bản tại Đài Loan và Hồng Kông như các tờ China New Press, Central Daily News, Tze Yiou Jen (Người Tự Do)…
Người Hoa tại Việt Nam qua sự kiện này đã ghi nhận một kinh nghiệm đáng nhớ : chỗ đứng của họ là ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài xã hội Việt Nam. Mất chỗ đứng trong lòng người Việt Nam sự nghiệp của họ tại Việt Nam sẽ bị lung lay.
Nhiều cơ sở, xí nghiệp thương mại phải đóng cửa, một số phải dời về Hồng Kông, Singapore hay những quốc gia Đông Nam Á khác, và một số phải di chuyển về Đài Loan. Những người Hoa còn lại, đa số là giới bình dân, không thể di chuyển sang các quốc gia khác vì gia đình của họ đã an cư lạc nghiệp nhiều đời tại Việt Nam.
Nhưng người Hoa cũng có phần chậm chạp trong việc chấp hành hai đạo dụ trên, họ nghiên cứu và quan sát rất kỹ những gì đang xảy ra và chỉ lấy quyết định khi đã suy nghĩ chính chắn và tin rằng chính phủ miền Nam thành thật trong lời nói : được quyền kinh doanh trở lại. Thật ra người Hoa chỉ sợ khi có quốc tịch Việt Nam, họ phải sống như một công dân Việt Nam, nghĩa là phải thi hành lệnh tổng động viên hay đi quân dịch (nghĩa vụ quân sự) mà họ không muốn. Họ sẵn sàng đóng góp đủ mọi thứ cho chính quyền miền Nam để miễn sao không phải thi hành quân dịch. Ước muốn của họ là được yên thân làm ăn và không muốn dính líu tới những tranh chấp chính trị của quốc gia địa phương. Người Hoa chỉ muốn giữ thế trung lập để dễ dàng trong kinh doanh.
Đây là một thách đố khó giải quyết. Nếu được thỏa mãn họ sẽ tham gia và đóng góp tích cực hơn vào sinh hoạt chung của xã hội, còn không họ cũng sẽ tìm mọi cách tránh né việc thi hành chế độ quân dịch, rút vào bóng tối làm đủ mọi nghề để sinh sống. Trong cả hai trường hợp, người Hoa vẫn là thành phần muốn được sống bên lề cuộc chiến tranh Nam-Bắc.
Người Việt Nam qua biến cố này cũng ghi nhận một bài học quí báu : sự phát triển kinh tế của miền Nam không thể thiếu vắng doanh nhân gốc Hoa. Chính sách phát triển kinh tế dân tộc vị chủng cực đoan (dân sinh dân tồn) chỉ dẫn đến phá sản. Doanh nhân người Việt chưa đủ tầm vóc để tự đảm nhận vai trò tự lập trong kinh tế, họ chỉ có thể hoạt động trong các lãnh vực tư doanh nhỏ, thiếu kinh nghiệm trong khi người gốc Hoa từ nhiều thế kỷ đã đảm trách vai trò giao dịch thương mại và là một thế lực kinh tế tại Việt Nam.
Có rất nhiều người Việt chống lại quyết định cho người Hoa mang quốc tịch Việt và cổ xúy tâm lý bài xích hay kỳ thị Hoa kiều, gọi những người này là “cắc chú” (khách trú), khinh thường hơn gọi họ là “chú chệt” hay “chệt luộc” (vì người Hoa khá giã thường mập phệ). Trong dân gian có nhiều bài hát nhại theo điệu Hồ Quảng được phổ biến trong dân chúng để hạ thấp danh dự người Hoa như “Ngộ là ngộ pênh Tàu, ngộ là ngộ mới xăng, mới xăng pênh Năm lầm dầu…” (ý nói người Hoa qua Việt Nam chỉ có mục đích kiếm tiền làm giàu). Bình dân hơn, người ta gọi người Hoa là “Chú Ba” (ý nói Chú Ba Tàu) và người Hoa gọi lại khách hành với nụ cười toe toét là “Ông Chủ”, “Ông Thầy”, hay “Anh Hai” (ý nói dù là Ông Chủ, Ông Thầy hay Anh Hai gì cũng phải bỏ tiền ra mua hàng hóa và nhờ cậy họ). Cũng may là ý đồ bài xích này – của một số người cực đoan và mặc cảm – đã sớm biến mất, không phổ quát trong quần chúng và người Hoa cũng không có ý làm căng thẳng thêm những mối hiềm khích.
Từ đó sự cách biệt tuy âm thầm nhưng sâu rộng, nhất là của những thương gia lớn gốc Hoa đối với nền kinh tế Việt Nam. Nhiều hình thức chuyển ngân hay chuyển người bất hợp pháp ra nước ngoài đã được phát hiện qua trung gian của một số viên chức chính quyền hay Hoa kiều Đông Nam Á. Thương nhân Hoa kiều Đông Nam Á cũng bớt sang Việt Nam nghiên cứu thị trường.
Cũng nên biết thêm, quan hệ của người Hoa là một quan hệ trao đổi vật chất, không những chỉ riêng tại Việt Nam mà còn trên khắp thế giới. Người Hoa có lối làm ăn liên lập với những cộng đồng Hoa kiều Đông Nam Á và các quốc gia tự do khác. Nếu tại Việt Nam người Hoa làm ăn khấm khá thì quan hệ thương mại với những cộng đồng Hoa kiều khác sẽ phát triển theo, nhất là với Hoa kiều Đông Nam Á. Người Hoa tại Đông Nam Á đang nắm giữ những vai trò kinh tế quan trọng tại mỗi quốc gia trong vùng. So với các quốc gia Đông Nam Á, tỷ lệ dân số gốc Hoa tại Việt Nam không đáng kể (xem Phụ lục 1). Thị trường xuất nhập cảng chính của Việt Nam là Hồng Kông, Singapore và Đài Loan.
Những lý do nới lỏng căng thẳng
– Về chính trị :
Tổng thống Ngô Đình Diệm trong chuyến công du Hoa Kỳ tháng 5/1957, được chính phủ Mỹ khuyến cáo rằng liên minh chống cộng Đông Nam Á, đang ủng hộ chế độ miền Nam, không thể tốt đẹp nếu Việt Nam cứ tiếp tục giữ nguyên chính sách kỳ thị này. Chính phủ Việt Nam cũng hiểu rất rõ những khó khăn về kinh tế có thể xảy ra nếu Trung Hoa Dân Quốc đoạn giao với Việt Nam và uy tín của Việt Nam có thể bị xấu đi trong quan hệ với thế giới tự do, chương trình kỹ nghệ hóa quốc gia có thể bị đình chỉ vì đầu tư quốc tế ngưng trệ.
Ngược lại đây cũng là cơ hội cho những doanh gia Việt Nam muốn làm ăn đứng ra thành lập những cơ sở thương mại buôn sỉ bán lẻ (do người gốc Hoa nắm giữ trước đó), và một số ngành kinh doanh lớn (sản xuất, xuất nhập cảng, ngân hàng, chuyên chở, dịch vụ địa ốc, bảo hiểm v.v…). Trong những năm 1954-1956, tổng số cơ sở xuất nhập cảng lên đến 20.000. Đến năm 1959, con số sụt xuống còn 851 cơ sở, trong đó có 550 của người Việt và người Việt gốc Hoa với số tiền ký quỹ ấn định là 350.000 đồng cho mỗi cơ sở. Cơ sở của những Hoa kiều đều bị loại ra khỏi sinh hoạt xuất nhập cảng.
Ngành kỹ nghệ được nhiều tư nhân Việt Nam tham gia đầu tư là nghề dệt vải. Ban đầu chỉ gồm những kỹ nghệ gia di cư từ miền Bắc, về sau có thêm tư nhân miền Trung và miền Nam. Công ty kỹ nghệ dệt đầu tiên có tầm vóc của người Việt là công ty cổ phần Sicovina (Société d’Industrie Cotonnière du Viet Nam), 50% vốn chính phủ và 50% vốn tư nhân. Cơ sở lớn đầu tiên được xây dựng tại Khánh Hội, với hơn 10.000 suốt kéo sợi, do ông Đinh Xáng là tổng giám đốc. Trang thiết bị sử dụng là những máy móc tháo gỡ từ miền Bắc năm 1954 mang vào Nam lắp ráp (xong năm 1957), năng suất thấp và hàng kém phẩm chất. Về sau hàng loạt Sicovina khác được thành lập với trang thiết bị tối tân hơn như Sicovina An Nhơn chuyên về nhuộm, máy móc do chính phủ Pháp tặng ; Sicovina Hòa Thọ tại Đà Nẵng chuyên về dệt và kéo sợi ; Sicovina Phong Phú tại Thủ Đức kéo sợi, dệt và nhuộm. Tư nhân Việt Nam cũng thành lập nhiều hãng xưởng dệt nhỏ như nhà máy dệt Tân An. Riêng tại khu Bảy Hiền có hơn 5.000 máy dệt gia đình do người Bắc di cư và Đà Nẵng làm chủ (xem Phụ lục 4).
Sự quyết tâm của Việt Nam Cộng Hòa trong việc thi hành hai đạo dụ trên được tăng cường vì Hoa Kỳ, không còn quan tâm mấy đến sự phân biệt đối xử này, đang dồn mọi nỗ lực ủng hộ chế độ miền Nam chống lại phe cộng sản miền Bắc đang đưa người vào Nam. Vấn đề Hoa kiều đã xảy ra một phần cũng do sự thiếu vắng một sự thông tin kịp thời và một chính sách phát triển cộng đồng bao dung, do đó đã làm chậm lại sự phát triển kinh tế của miền Nam trong giai đoạn độc lập còn phôi thai trước sự đe dọa của cộng sản. Sau một thời gian gây cấn, cả hai phía đều nhận thấy sự vô lý của mình và nhận thức rõ vai trò hỗ tương giữa sinh hoạt của cộng đồng và sinh hoạt của quốc gia.
Quan hệ giữa hai quốc gia cùng chiến tuyến (chống cộng) không vì những tranh chấp cục bộ mà bị xấu đi. Nhiều cuộc tiếp xúc cấp cao giữa phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa với chính phủ Đài Loan, những bang trưởng gốc Hoa, những vị thủ lãnh trong Hiệp hội Thái Bình Dương Tự Do đã diễn ra. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc nêu ra lý do là Việt Nam Cộng Hòa không cho công dân của họ quyền tự do chọn lựa quốc tịch (ý nói đã không thương lượng trước với chính phủ Trung Hoa khi ban hành hai đạo luật này và làm như vậy là trái với Hiến chương về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc).
Bộ trưởng ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc, ông Diệp (K.C. Yeh), nhân chuyến viếng thăm Sài Gòn tháng 3/1958, tuyên bố chính quyền Đài Loan luôn luôn ủng hộ sự tự do chọn lựa quốc tịch của công dân Trung Hoa sinh sống tại Việt Nam. Ông nói rằng Trung Hoa Dân Quốc và Việt Nam là hai quốc gia tự do dân chủ phải tôn trọng nguyên tắc tự do chọn lựa quốc tịch của công dân nước họ sinh sống ở hải ngoại. Đài Loan đề nghị tổ chức những cuộc họp mặt chính thức cấp cao để tháo gỡ những bế tắc. Thật ra chính quyền Đài Loan cũng biết rõ nếu làm gắt chuyện Hoa kiều tại Việt Nam chỉ gây bất lợi cho người Hoa sinh sống tại đây, nhất là được biết Hoa Kỳ đang chuẩn bị sự có mặt tại miền Nam để chận đứng sự xâm lược của cộng sản miền Bắc.
Tháng 5/1958 tình hình lắng dịu trở lại. Hai nước đồng ý mở lại các cuộc thương thảo. Tổng thống Ngô Đình Diệm chấp nhận sang Đài Loan để thảo luận vấn đề người gốc Hoa sinh sống tại Việt Nam và chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau chuyến viếng thăm này, nhiều người Hoa gia nhập quốc tịch Việt Nam. Sự lo ngại đoạn giao giữa Trung Hoa Dân Quốc tan biến, quan hệ hợp tác giữa hai nước được bình thường trở lại, nhất là trong lãnh vực kinh tế.
Về mặt đối nội, tổng thống Ngô Đình Diệm không còn lo âu về những biến động chính trị hay kinh tế đến từ cộng đồng người Hoa. Tất cả các ngành hay dịch vụ kinh tế chính đều do thân tín của gia đình họ Ngô và đảng Cần Lao nắm giữ. Bà Trần Thị Lệ Xuân, vợ của ông Ngô Đình Nhu, bà cả Lễ (chị ruột của tổng thống Ngô Đình Diệm) nắm giữ phần lớn các cơ sở làm ăn bề thế tại miền Nam và khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Tại miền Trung, ông Ngô Đình Cẩn chi phối toàn bộ sinh hoạt nền kinh tế địa phương. Ngoài ra một số hội đoàn ngoại vi của chế độ kiểm soát chặt chẽ các sinh hoạt kinh tế tư nhân như Hội Phụ Nữ Liên Đới, Thanh Niên Cộng Hòa, Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia v.v… Người gốc Hoa muốn làm ăn êm suốt phải được sự chấp thuận của những nhân vật hay các tổ chức này.
Những người thân tín có tiếng của chính quyền quan hệ trực tiếp với thương gia gốc Hoa là các ông Trần Văn Lộc (chủ tịch Nghiệp đoàn Xuất nhập cảng), Trần Đức Ước (phó chủ tịch), Vương Minh Châu (chủ tịch Liên đoàn Công thương Miền Nam), Trần Lưu Di (cố vấn Phong trào Công thương Cách mạng Quốc Gia), v.v… Với những cơ quan dân sự này, sự hợp tác giữa thương gia gốc Hoa và chính quyền trở nên gắn bó. Sáng ngày 2/11/1963 khi bị phe quân nhân đảo chánh, hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu phải chạy vào Chợ Lớn tá túc trong nhà bang trưởng Quảng Đông, ông Mã Tuyên, sau đó được đưa vào nhà thờ Cha Tam để lánh nạn.
Người Hoa được phép kinh doanh trở lại, ngân quỹ quốc gia thu thêm thuế khóa. Nền kinh tế miền Nam bắt đầu cất cánh trở lại, nhiều cơ sở kỹ nghệ lớn được thành lập tại nhiều nơi làm gia tăng tổng sản lượng quốc gia và đáp ứng phần nào nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Trong khi đó tại Hoa lục, chính quyền cộng sản ra sức tuyên truyền thừa nhận lực lượng thứ năm – cộng đồng Hoa kiều hải ngoại – là một bộ phận không thể tách rời của Trung Quốc. Bắc Kinh sử dụng mọi công cụ có thể sử dụng được, chính thức hay không chính thức, công khai hay bí mật, kể cả áp lực quân sự, chính trị, ngoại giao, chiến tranh tâm lý, bao vây kinh tế, tổ chức lật đổ chính quyền nhằm phá hoại sự ổn định trong khu vực. Điều này gây nhiều bối rối không ít cho những Hoa kiều sinh sống tại Việt Nam nói riêng và trong vùng Đông Nam Á nói chung, nhất là Indonesia. Một số nhân vật trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đặt lại vấn đề quốc tịch của một số người gốc Hoa : sự chân thành của họ khi mang quốc tịch Việt Nam, vì có một số người gia nhập quốc tịch để dễ bề hoạt động cho Trung Quốc và chế độ miền Bắc.
Lợi dụng cơ hội này, nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc gia tăng hoạt động tuyên truyền khích động căm thù giai cấp và chủng tộc trong Nam. Hà Nội xúi giục người Hoa và người Việt đánh nhau để miền Nam không thể tập trung nỗ lực vào công cuộc xây dựng đất nước. Nhiều cán bộ, đơn vị Hoa vận cộng sản miền Bắc xâm nhập vào các khu dân cư lao động tại Sài Gòn – Chợ Lớn, đồng bằng sông Cửu Long hoạt động tuyên truyền, phá hoại.
– Về xã hội :
Về phía Việt Nam, sự giảm thiểu cường độ cứng rắn với người Hoa trong việc áp dụng luật quốc tịch một phần cũng vì những lý do xã hội.
Tâm lý của người Việt vẫn không thích nghề mua bán, những người có khả năng nhất – thành phần trí thức – thích làm công hơn làm chủ, họ thích đảm trách những vai trò chuyên viên cấp cao trong các lãnh vực phi kinh tế, hành chánh và không muốn nhận lãnh hay không dám đương đầu với những rủi ro của nghề kinh doanh. Những người vợ và những người Việt cho mượn tên đang tập tễnh đi vào lãnh vực kinh doanh của chồng và bạn hữu là người Hoa (đặc biệt là ngành bán thịt và thực phẩm chế biến) lo ngại bị những người Hoa khác (nhiều vốn và kinh nghiệm hơn) cạnh tranh mua bán dưới những hình thức khác (buôn bán thịt nguội, cá lậu trên thị trường chợ đen, tăng giá thu mua v.v…). Những quyết định quan trọng của những cơ sở cho mượn tên thường do chồng hay chủ vốn là người Hoa quyết định.
Sinh hoạt kinh tế của Việt Nam trì trệ hẳn khi thiếu vắng người Hoa, không có người Việt nào dám xuất vốn lớn để đầu tư. Mặc cảm yếu kém vẫn còn ngự trị trong giới doanh nhân Việt. Những gia đình Việt Nam giàu có thường đầu tư vào đất đai, ruộng vườn, có người thích chuyển vốn ra ngoại quốc và tìm cách cho thân nhân xuất ngoại và sống luôn tại đó hơn là đầu tư vào kỹ nghệ hay thương mại để làm phát triển đất nước. Chính quyền cũng không thể tổ chức mạng lưới phân phối ở khắp mọi nơi. Tư nhân Việt Nam thiếu kinh nghiệm, không đủ tự tin để cạnh tranh trực tiếp với người Hoa trong lãnh vực phân phối mà cơ sở, vốn liếng và kinh nghiệm của họ hơn hẳn.
Chính quyền miền Nam cũng nhìn nhận dịch vụ thương mại của người Hoa không phải dễ dàng thay thế. Trong số 596 quầy bán thịt và 1.013 tiệm chạp phô do người gốc Hoa nắm giữ tại Sài Gòn trước ngày 6/9/1956, chỉ có 96 người Việt (chưa tới 6%) đứng ra thay thế. Hậu quả thiếu người gốc Hoa tham gia vào sinh hoạt kinh tế làm giảm nguồn thu nhập về thuế cho chính phủ. Trên cả nước thời đó có 11.115 môn bài được cấp (1957), người gốc Hoa chỉ có 4.606. Sự thiệt hại này cũng làm chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phải duyệt lại chính sách hội nhập và phát triển.
Đội quân thất nghiệp gia tăng và xuất hiện trên các đường phố, họ làm đủ các nghề vụng vặt để sống. Riêng tại Sài Gòn năm 1956 có 400.000 người thất nghiệp. Trên toàn quốc năm 1959 có đến 1,5 triệu người không có công ăn việc làm. Lạm phát từ tháng 1 đến tháng 5/1956 là 6%, riêng trong tháng 6/1956 lạm phát đã tăng lên 8%. Lợi tức gia đình không tăng, giá gạo từ 481 đồng/tạ tăng lên 500 đồng khiến nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn đốn. Năm 1957, mãi lực của người dân giảm 70% so với trước năm 1956.
Tại các tỉnh, người Hoa không được phép cho nông dân vay tiền làm mùa và nông dân cũng không biết phải vay mượn và bán lúa nơi đâu. Chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ mua lúa từ những tay đầu nậu, chủ vựa gạo mà đa số là người gốc Hoa. Có một thời gian quân đội và công chức phải đi thu mua lúa gạo nhưng hiệu quả kinh tế không cao vì thiếu nghiệp vụ chuyên môn, tiền bạc thanh toán chậm khiến nông dân không mấy hưởng ứng. Thêm vào đó nạn tham nhũng bắt đầu lan tràn, nhiều viên chức chính phủ khi vận chuyển lúa gạo ra miền Trung đã cất giấu để bán chợ đen.
Hàng thủy sản trở nên khan hiếm, ngư dân Việt Nam không bán được cá, dân chúng thành thị cũng không biết mua tôm cá ở đâu. Mạng lưới phân phối thủy sản bị tê liệt. Ngư dân chỉ biết lấy cá vừa đánh bắt làm mắm hay phơi khô. Cư dân thành thị không ăn tôm cá trong nhiều tháng. Những người nuôi heo cũng lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì không có người mua heo và cũng không ai bán cám. Than củi cũng rất khó khăn. Vật liệu gia dụng của nhiều gia đình bị hư hỏng, gia chủ phải tự sửa lấy để dùng. Hoạt động kinh tế nói chung bị khựng lại.
Về phía người Hoa, chế độ bang trưởng bị bãi bỏ từ thời Pháp thuộc (năm 1948), Hội Ái Liên bị cấm hoạt động từ 1956, Văn Phòng Thương Mại Chợ Lớn không người lãnh đạo, cộng đồng của họ thiếu vắng một giai cấp trung gian để lãnh đạo tại chỗ. Chính quyền Đài Loan chỉ là chọn lựa thứ hai. Người Hoa không thể trở về Đài Loan vì gia đình họ từ nhiều đời đã sinh sống tại đây, đã quen với môi trường sinh sống và không thể mang theo hết tài sản và tại Đài Loan tương lai của họ càng bấp bênh hơn ở Việt Nam. Cộng đồng người Hoa không hài lòng với tình trạng bị đá qua đá lại mãi giữa hai chính quyền, Đài Loan và Việt Nam Cộng Hòa, và cũng không muốn bị đưa về lục địa sống với chế độ cộng sản.
Tại Sài Gòn vào giữa tháng 7/1957 có hơn 25.000 người Hoa thất nghiệp, con số này đã tăng cao hơn nữa những tháng sau đó. Theo tin của Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 27/5/1957, trên toàn quốc chỉ riêng trong ba ngành nghề : than củi (150 tiệm), sắt thép (300 cơ sở) và chạp phô (900 cửa hàng) có tới 50.000 người Hoa mất việc.
Những thương gia gốc Hoa bắt đầu cảm thấy nguy cơ mất cơ hội làm ăn và chỗ đứng tại miền Nam nếu họ cứ tiếp tục đường lối cứng rắn. Hoa Kỳ, Nhật Bản và phương Tây đang dò đường, tìm cơ hội đầu tư tại miền Nam. Nhật Bản sẵn sàng bồi thường chiến tranh, xây dựng lại những cơ sở hạ tầng để có mặt lâu dài tại đây. Quan trọng hơn nữa là Hoa Kỳ đang vận động can thiệp quân sự trực tiếp vào miền Nam – nơi nào có quân đội Mỹ nơi đó dễ kiếm tiền – một cơ hội mà thương nhân gốc Hoa không thể trễ hẹn.
Vì các lẽ trên, càng ngày càng có nhiều người Hoa xin gia nhập quốc tịch Việt Nam để được phép làm ăn. Một số người Hoa quan niệm sống ở Việt Nam phải tuân theo pháp luật của Việt Nam, đó là lẽ tự nhiên.
Ngày 1/11/1963 chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, cộng đồng người Hoa tại miền Nam thở phào nhẹ nhỏm. Họ tin rằng với chính quyền mới họ sẽ được dễ dàng hơn trong việc thương mại, nhất là có tin đồn Hoa Kỳ sẽ đổ quân vào miền Nam. Cộng đồng người Hoa hy vọng sẽ có cơ hội thăng hoa nhiều hơn nữa trên một đất nước mà người bản xứ hoàn toàn thua kém họ về mặt kinh doanh. Nói chung người Hoa rất lạc quan sau cuộc cách mạng.
Từ đầu năm 1964, cơ sở kinh doanh của người gốc Hoa mọc lên như nấm, đặc biệt là nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp với số vốn đầu tư lớn. Với sự tham chiến của quân đội Hoa kỳ và Đồng Minh năm 1965, an ninh của miền Nam được bảo đảm, tư nhân Hoa kiều đầu tư vào miền Nam không do dự. Có chiến tranh tức có tàn phá, hễ có tàn phá thì phải có xây dựng. Có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tức có tiêu xài, muốn tiêu xài thì phải có nơi giải trí. Với những suy luận giản dị như thế, doanh nhân người Hoa tập trung đầu tư vào những phó sản của chiến tranh : cung cấp vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng và nơi giải trí.
Khu kỹ nghệ Biên Hòa tràn ngập các đại công ty kỹ nghệ tân tiến của người gốc Hoa với sự giúp vốn và kỹ thuật của Hoa kiều Đông Nam Á, đặc biệt là Đài Loan. Các hãng dệt Vinatexco, Vinatefilco, Vimytex, Donafitex được trang bị rất hiện đại có khả năng cung cấp vải đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước (20 triệu thước/năm) với phẩm chất không kém gì vải ngoại quốc. Những ngành sản xuất kỹ nghệ có tiếng của người Hoa tại khu kỹ nghệ Biên Hòa như Vicasa (nấu và cán sắt), Viso (xà bông bột), Sakimco (cán thép) v.v… làm chủ các thị trường chuyên ngành của miền Nam. Người Hoa làm chủ phần lớn các hãng bảo hiểm tại miền Nam.
Nhiều hãng xưởng được thiết kế quanh khu vực Chợ Lớn : hãng bột ngọt Vị Hương Tố, kem đánh răng Hynos, Perlon, Leyna, hãng phim Viễn Đông, hãng pin Con Ó, giầy Bata, Sakybomi (bột mì), hãng cưa, hãng dầu ăn, hãng phân bón, v.v…
Nhiều công ty đúc, cán sắt và lắp ráp nông cơ tầm vóc nhỏ hơn, kiểu gia đình, hoạt động rất náo nhiệt quanh khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Những cơ sở gia đình cũng dựa theo đó mà phát triển nhờ sự nhập cảng tư liệu sản xuất và nguyên liệu có phần dễ dàng hơn xưa. Đời sống của cộng đồng người Hoa trở nên sung túc.
Người Hoa không có mặt trong các định chế kinh doanh lớn có tính chiến lược mà chính phủ sở hữu trên 51% vốn, nắm quyền kiểm soát và quản trị trực tiếp, như Ngân hàng Việt Nam Thương Tín, Công Ty Điện Lực, Sài Gòn Thủy Cục, Hàng Không Việt Nam, các công ty Đường Hiệp Hòa, Phan Rang và Khánh Hội, Tổng Cục Tiếp Tế, Quân Tiếp Vụ…
Những công ty lớn còn lại chính phủ và tư nhân góp vốn qua hình thức cổ phần, trong đó có nhiều cổ đông gốc Hoa như các công ty giấy Cogido (9.000 tấn/năm đủ cho nhu cầu giấy trong nước), công ty xi-măng Hà Tiên (độc quyền thu mua và sản xuất bột xi-măng cho nhu cầu toàn quốc), công ty sữa Ông Thọ, Vikyno (nông cơ), v.v…
Trừ Công Ty Thủy Tinh (sản xuất 17.000 tấn/năm), người Hoa không có cổ phần vì tư nhân Pháp (hãng nước ngọt BGI và các viện bào chế Tây dược) giữ độc quyền. Hãng sản xuất nước ngọt SEGI (Phương Toàn hay Con Nai) phải mua vỏ chai của Đài Loan. Những hãng sản xuất dược liệu Á Đông phải đặt mua vỏ chai của những tư nhân gốc Hoa sản xuất theo lối tiểu thủ công nghiệp. Người Hoa độc quyền mua lại vỏ chai đã sử dụng để tái sản xuất các loại vỏ chai khác cho nhu cầu nội địa.
Nhờ viện trợ của Hoa Kỳ người dân Việt Nam, nhất là các viên chức chính quyền và thương gia, những người có đời sống kinh tế khá giã bắt đầu nghĩ tới chuyện tiêu xài, hưởng thụ. Nhiều cơ sở phục vụ giải trí được thành hình với đầy đủ các mục ăn chơi kiểu Hồng Kông : đại tửu lầu Đồng Khánh, Bát Đạt, Arc-en-Ciel, Đại La Thiên, các đại khách sạn Bồng Lai, Lục Quốc. Bình dân hơn là những khu ăn nhậu tại những trục giao lưu lớn tại Sài Gòn – Chợ Lớn do người Hoa làm chủ : La Kai, Chợ Cũ, Đa Kao, Tân Định, Ngã Bảy, Ngã Sáu, Bình Tây, Khổng Tử, v.v… Các đại bệnh viện Sùng Chính, An Bình, Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông… được trang bị tối tân hơn và thay đổi hẳn phương pháp chữa trị : áp dụng Tây y thay vì Đông y. Các bang hội người Hoa phát triển mạnh mẽ, tăng cường các hoạt động kinh tế và văn hóa đến các thị xã, thôn xóm xa xôi nhất.
Đời sống vật chất và bộ mặt kinh tế của miền Nam thay đổi hẳn, người ta có thể nói đến phồn vinh, nhất tại các thành phố lớn. Được sự cố vấn của những chuyên viên quốc tế, mặc dầu đang có chiến tranh, tư bản quốc tế tiếp tục đổ vào miền Nam tại những thành phố lớn và các khu công nghiệp Biên Hòa, Thủ Đức, Bình Đông, Bình Tây, Đà Nẵng v.v… Hoa kiều từ nhiều nước Đông Á khác ra vào ào ạt, họ bỏ vốn đầu tư rất nhiều tại Chợ Lớn và vùng phụ cận. Thế lực của tư bản gốc Hoa trong nước được các đại gia đình tài phiệt Hoa kiều hải ngoại tăng cường, những người này nhắm khai thác và tiêu hóa nguồn viện trợ của Hoa Kỳ và đồng minh đang đổ vào miền Nam một cách ồ ạt.
Nơi nào có viện trợ của Hoa Kỳ nơi đó dễ làm ăn. Một số gia đình tư bản người Việt cũng bắt đầu xuất hiện trên thương trường sau ngày quân đội Mỹ có mặt. Gia đình Hoàng Kim Quy, được gọi là “vua kẽm gai”, chuyên sản xuất dây kẽm gai và lưới chắn đạn B40. Gia đình Phạm Quang Khai độc quyền chuyên chở xăng dầu và tiếp liệu cho chính quyền miền Nam.
Cũng nhờ có viện trợ của Hoa Kỳ, mức sống của xã hội miền Nam lên cao, nhiều cơ sở sản xuất kiểu phương Tây được thành lập, nhất là ngành y dược. Các công ty y dược lớn bắt đầu xuất hiện để phục thị hiếu ngày càng cao của dân chúng, đa số tập trung tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Một số nhân vật thân cận với chính quyền mở bệnh viện như bệnh viện Vì Dân của bà Nguyễn Văn Thiệu, hay thành lập những công ty y dược có tầm vóc như công ty dược phẩm OPV của Nguyễn Cao Thăng, xí nghiệp dược phẩm Trang Hai của bà Nguyễn Thị Hai, viện bào chế Cophavina của dược sĩ Cổ Trung Ngươn, hãng thuốc Sifap của Đào Hữu Giao và Thân trọng Thúy Mai, Laboratoire La Thành của La Thành Nghệ, viện bào chế Béta của Bùi Kim Bảng. Một số dược sĩ, bác sĩ có thực tài cũng xây dựng được nhiều cơ sở nổi tiếng như dầu khuynh diệp của bác sĩ Bùi Kiến Tín, dưỡng đường Công Lý của bác sĩ Trần Đình Đệ, dưỡng đường Duy Tân của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, phòng chụp quang tuyến X của bác sĩ Lý Hồng Chương.
Một số gia đình giàu có khác kinh doanh vào ngành dệt như hãng Lysyntex (Liên Phương Kỹ Nghệ Dệt) của bà Nguyễn Thị Giàu, hãng dệt Nam Á và công ty dệt len Vĩnh Thịnh của Phan Bá Thúc, Sakymen (dệt mền len) của Bùi Trác tại cầu Bình Lợi, Tái Thành của bà Đoàn Thị Mỹ (chồng là Huỳnh Văn Thái, người Việt gốc Hoa). Vốn của các cơ sở này ngày càng lớn. Lysyntex lúc ban đầu chỉ vài trăm ngàn, đến năm 1974 được ước tính trên 1,5 tỷ đồng, trước tháng 4/1975 tăng trên 5 tỷ. Tái Thành lúc đầu chỉ có 6 máy dệt bằng gỗ, đến năm 1974 tổng tài sản tăng trên 8 triệu USD. Gia đình họ Cự tại đường Gia Long tập trung vào ngành dệt và may mặc. Người Việt sản xuất tơ sợi nhiều hơn người gốc Hoa (60%) nhưng chỉ phân phối được 30% thành phẩm, số còn lại phải nhờ hệ thống phân phối của người Hoa. Nghề thuộc da cũng được nhiều người Việt tham gia đầu tư như nhà máy da thuộc Bình Lợi của kỹ sư Trần Công Lợi, về sau có thêm hai nhà máy da thuộc khác do những kỹ sư Việt Nam tốt nghiệp tại từ Pháp (Lyon) về quản trị. Nhiều doanh gia khác đầu tư vào ngành nhập cảng xe gắn máy và bánh ngọt (Thái Thạch) như Mai Văn Hàm, hóa chất dệt nhuộm và hương liệu của Nguyễn Công Kha.
Tư nhân Việt Nam hoạt động mạnh trong ngành ấn loát (Sài Gòn ấn quán, Kim Lai ấn quán của Trương Vĩnh Lễ), xuất bản (nhà sách Khai Trí của Nguyễn Hồng Trương), báo chí, rạp hát (Rex, Văn Hoa của Âng Thi), phim ảnh (hãng Cosunam của Nguyễn Thị Lợi, Alfa Film của Thái Thúc Nha, hiệu nhiếp ảnh Long Biên). Nói chung, về kinh doanh văn hóa người Việt tự cung ứng đủ nhu cầu trong nước. Chính quyền miền Nam cũng đầu tư rất nhiều vào các cơ sở văn hóa và ấn loát như Bộ Giáo Dục, Bộ Thông Tin và Dân Vận, Bộ Quốc Phòng, v.v… nhưng chỉ nhằm mục đích giáo dục, thông tin và tuyên truyền, chứ không có tính thương mại.
Về sản xuất kỹ nghệ, nhiều công ty do người Việt làm chủ trực tiếp hay qua hình thức cổ phần đã xuất hiện, tuy còn khiêm tốn nhưng rất tích cực. Từ năm 1972, công ty xe hơi Citroen của Pháp đã cùng với kỹ sư Việt sản xuất thành công chiếc xe hơi đầu tiên tại Việt Nam hiệu Lada, và bày bán trên khắp các thị trường miền Nam. Khu kỹ nghệ Biên Hòa có các công ty : bột giặt Net của ông Hà Dương Bưu (vốn : 75% Việt, 25% Hoa), Vinappro (75% Việt, 25% Nhật) do Cao Văn Đức làm tổng giám đốc với sự hợp tác của các ông Phạm Văn Thơm, Khương Hữu Cân, chuyên sản xuất bộ phận máy cày và xay lúa. Ngoài ra chính quyền miền Nam cũng xuất vốn đầu tư rất nhiều vào một số ngành kỹ nghệ cơ bản như Sicovina (đến năm 1974 vốn tư nhân chỉ còn 4% thay vì 50% như trước, 96% vốn của chính phủ), công ty xi-măng Hà Tiên do ông Dương Mộng Ảo làm tổng giám đốc, các công ty đường Hiệp Hòa, Phan Rang, Khánh Hội (có lúc do ông Nguyễn Văn Hải làm tổng giám đốc), Vikyno của Việt Nam Thương Tín v.v…
Một số tư nhân khác đầu tư vào các ngành dịch vụ. Về ngân hàng có ngân hàng Tín Nghĩa của Nguyễn Tấn Đời, ngân hàng Trung Việt của Phạm Sanh, ngân hàng Nam Đô của Võ Văn Ấng. Về ngành vàng bạc nữ trang như gia đình Nguyễn Thế Tài, Nguyễn Thế Năng, Đức êm, Kim Thành, Kim Hoa tại đường Lê Thánh Tôn. Về khách sạn có khách sạn Catinat của Trần Quí Phong, khách sạn Palace của Nguyễn Gia Ân.
Nhiều gia đình quí tộc gốc Huế (Nguyễn Phúc, Thân Trọng, Tôn Nữ) đầu tư xây dựng rất nhiều khách sạn, chung cư và cao ốc trên các đường Nguyễn Trung Trực (Ambassy, Emperador), Trần Quí Cáp, Công Lý v.v… để cho người Mỹ thuê. Về hàng không, gia đình Nguyễn Tấn Trung có số cổ phần quan trọng nhất trong Air Việt Nam.
Nhiều gia đình giàu có xuất thân từ chính quyền cũng có mặt trong đủ các ngành kinh doanh như gia đình Trần Trung Dung, Nguyễn Văn Điền. Một số tướng lãnh giàu có cũng xuất hiện trên thương trường nhưng hoạt động kín đáo hơn như gia đình các ông Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Hoàng Xuân Lãm, Đặng Văn Quang, Lữ Lan, Ngô Du, Đoàn Văn Quang, Nguyễn Văn Toàn v.v… Đa số kinh doanh trong lãnh vực nhà hàng, tửu lầu, khách sạn, phòng trà ca nhạc, khiêu vũ trường, thầu quân cụ phế thải và khai thác đồn điền.
Nhìn chung, thành phần tư bản Việt Nam có phát triển nhưng sự phát triển đó không do chính khả năng của đương sự, phần lớn đều cậy nhờ không nhiều thì ít vào thế chính quyền. Khi mất nguồn viện trợ của Hoa Kỳ, hoạt động kinh doanh của một số nhân vật bị khựng lại (trường hợp của gia đình Hoàng Kim Qui, Phạm Quang Khai và một số tướng tá khác), nhiều người chuyển nhượng cơ sở hay đổi ngành kinh doanh từ sản xuất sang dịch vụ (khách sạn, giải trí, ăn uống). Chỉ còn lại một số ít công ty cổ phần do vốn tư nhân còn tiếp tục kinh doanh, đa số là những công ty nặc danh cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, trong các ngành sản xuất, tài chánh hay y tế như nghề dệt, ấn loát, dịch vụ ngân hàng, bệnh viện, viện bào chế.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có thành lập một số ngân hàng như Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn để cho tư nhân vay với lãi suất thấp (6%) để sản xuất, nhưng thực tế rất đáng buồn. Một số doanh nhân Việt gốc Hoa đã mua chuộc gần như toàn bộ nhân viên xét duyệt hồ sơ vay vốn để vay từ 80 đến 90% số vốn dành cho vay. Mặc dầu không cần tiền, họ vẫn lập hồ sơ để vay cho hết số tiền của chính phủ vì họ không muốn doanh nhân Việt mượn tiền để phát triển và cạnh tranh với họ. Có người vay tiền ngân hàng để sau đó cho nông dân vay lại với lãi suất 20%/năm.
Kinh nghiệm về kinh doanh của thành phần doanh nhân mới này còn rất yếu nhưng nhờ biết áp dụng những phương thức quản lý của phương Tây, và nhất là biết sử dụng thành phần trí thức trẻ tốt nghiệp đại học, cơ sở của họ đã đứng vững được cho đến tháng 4/1975. Từ 1962 đến 1975, các Viện Đại Học và Trường Kinh Doanh tư nhân đã mở nhiều khóa huấn luyện về quản trị xí nghiệp, đào tạo được khá nhiều chuyên viên có khả năng, thêm vào đó một số du học sinh sau khi tốt nghiệp đã về nước phục vụ, làm tăng thêm nguồn nhân lực cao cấp trong các lãnh vực kinh doanh và quản trị. Nguồn vốn của những cơ sở tư nhân này rất đa dạng (vốn gia đình, cổ phần, vay mượn…), mặc dù chiến tranh đang leo thang họ vẫn xuất tiền thành lập doanh nghiệp lớn ngay trong nước, tạo công ăn việc làm cho rất nhiều người, thay vì cất gởi vào các ngân hàng ngoại quốc hay chuyển ra nước ngoài.
Chiến tranh có lúc phải chấm dứt. Từ khi có hội nghị Paris năm 1968, doanh nhân gốc Hoa chuẩn bị hiện diện trong giai đoạn hậu chiến. Sau năm 1972, nhận thấy cuộc ngừng bắn qui định bởi Hiệp Định Paris không thuận lợi cho một sự đầu tư lâu dài, doanh nhân gốc Hoa đầu tư chủ yếu vào các ngành nào mà khi hữu sự họ có thể thu hồi lại vốn thật nhanh. Người Hoa chỉ đầu tư vào các ngành dịch vụ ăn uống và giải trí như mở nhà hàng, khách sạn, phòng trà vì chính trong lúc loạn lạc hay tuyệt vọng người ta sẽ tìm quên hay giải khuây trong những nhà hàng sang trọng. Những người Hoa nào đã đầu tư vào kỹ nghệ vẫn tiếp tục sản xuất nhưng phần doanh lợi được chuyển dần ra ngoại quốc. Chỉ một số ít người Hoa dám đầu tư vào các dịch vụ khác như ngân hàng, tín dụng, kim hoàn vì gọn nhẹ, khi hữu sự có thể gói ghém vốn liếng nhanh để chạy hay cất dấu. Một số khác bỏ vốn đầu tư vào các cơ sở xuất nhập cảng với mục đích tìm cơ hội chuyển ngân lậu tư bản ra ngoại quốc hay tích tụ tài sản tại hải ngoại. Đây là những lãnh vực đầu tư có tỷ lệ kiếm lời cao, có khả năng hoàn vốn nhanh và nhất là không có cạnh tranh. Một số khác nhìn xa hơn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến nhỏ như sản xuất những mặt hàng gia dụng như bếp lò dầu lửa, vật dụng bằng điện hay thực phẩm chế biến như xay bột, xay gạo, mì ăn liền, kẹo bánh kỹ nghệ, bột ngọt… vì thời nào những nhu cầu ăn uống và nấu nướng cũng cần thiết. Hơn nữa số vốn bỏ ra không là bao nhưng tỷ lệ kiếm lời rất lớn. Ngành sản xuất thực phẩm khô (mì ăn liền, lạp xưởng, đường sửa, bánh kẹo) rất được ưa chuộng vì đó cũng là nguồn tiếp liệu mà hậu cần cộng sản tìm mua để nuôi và dưỡng quân.
Theo tài liệu thống kê của chính quyền miền Nam cho biết sau 1972, người Hoa chiếm lĩnh 80% thị trường hàng chế biến, 100% ngành buôn sỉ, 50% bán lẻ, 90% xuất nhập khẩu, 80% tín dụng ngân hàng. Họ còn làm chủ 42 trên 60 hãng xưởng có số doanh thu trên 1 tỷ đồng, cung cấp 2/3 vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế tư nhân của miền Nam.
Có 80 tỷ phú (tiền miền Nam) gốc Hoa được biết tiếng sau 1965 và được gọi là “vua” như vua gạo, vua xăng dầu, vua nông cụ, vua bột mì v.v… như các ông Lâm Huê Hồ (tín dụng), Lý Long Thân (dệt), Mã Hí (mễ cốc), Trần Thành (bột ngọt), Đào Mậu (ngân hàng), Trương Vĩnh Nhiên (rạp hát, phim ảnh), Trần Thoại Hà (trà), Lại Kim Dung (gạo), Vương Đạo Nghĩa (kem đánh răng), Lý Sen (cán thép), Lưu Kiệt, Lưu Tung (nông cơ), Tăng Tài (vận tải đường sông), Lâm Thọ Vinh (dầu gió), v.v… “Vua” ở đây có nghĩa là đứng đầu hay độc quyền trong lãnh vực kinh doanh của mình.
Qui chế đại bang tuy không được thừa nhận nhưng những bang hội người Hoa được tự do hoạt động. Những bang địa dư thi nhau xây cất chùa chiền, đình miếu, nhà tổ, hội đồng hương án, trường học. Nhiều phường thành lập các hội múa sư tử, dàn nhạc ma chay, cơ sở thể dục thể thao riêng để chỉ phục vụ cho riêng bang hội của họ. Nhiều đội thể thao, môn phái võ nghệ trong thế giới Trung Hoa được các bang hội địa phương mời vào Việt Nam biểu diễn, tất cả đều được đón tiếp trọng hậu. Chính quyền miền Nam dành cho mỗi bang ngữ phương có chương trình phát thanh riêng để kêu gọi sự ủng hộ của người Hoa. Nội dung của các chương trình này được dùng để thông tin, quảng cáo, báo tin ma chay, đám cưới v.v… nhưng người Hoa không muốn tuyên truyền chính trị.
Dân số cộng đồng người Hoa cũng tăng gần gấp đôi sau 1968, từ 800.000 người năm 1956 tăng lên 1.035.000 người năm 1961, 1,3 triệu năm 1963 và 2,2 triệu năm 1972 (rất đông Hoa kiều đến từ Hồng Kông và Đài Loan).
Sự phát triển quá nhanh chóng của xã hội miền Nam đào sâu hố ngăn cách giữa một thiểu số giàu có và đại đa số nghèo khó. Thành phần giàu có người Việt đa số đều có thế dựa từ chính quyền, thành phần giàu có gốc Hoa có điểm tựa là các bang hội lớn hay các tập đoàn tư bản Hoa kiều trong vùng. Cả hai thế lực này tự do tung hoanh hoành trong xã hội miền Nam và không có gì có thể cản trở sự phát triển của họ. Nhiều biện pháp của chính quyền ban ra nhằm hạn chế tệ nạn khuynh loát xã hội nhưng không mang lại kết quả mong muốn. Hội Đồng Cách Mạng của Nguyễn Cao Kỳ (năm 1964) và Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng của Trần Văn Hương (năm 1972) đã có nhiều cố gắng hạn chế sự lộng hành của các tập đoàn tài phiệt và trong sạch hóa chính quyền và xã hội nhưng không mấy thành công.
Tình trạng tham nhũng lan tràn khắp các cấp chính quyền Đệ II Cộng hòa. Chức quận trưởng quận 5 (Chợ Lớn) là chức vị cao giá nhất thời đó, chỉ những nhân vật thân tín của chính quyền mới được trúng tuyển. Chức vị giám đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành cũng rất cao giá. Những nhân vật thân chính quyền được cử đến quản trị những khu vực này phải đóng “hụi chết” cho thượng cấp từ tổng thống, thủ tướng, tướng tư lệnh vùng cho đến những viên chức cấp thấp trong ngành thuế vụ, an ninh. Chính vì mua chuộc được quan chức chính quyền ở các cấp, tài phiệt gốc Hoa làm mưa làm gió trên thị trường miền Nam, họ đầu cơ tích trữ, độc quyền thu mua vật liệu phế thải của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, qui định các giá gạo, đường, sữa, xà bông, bột ngọt, xi-măng, sắt thép, phân bón, xe gắn máy, đồ phụ tùng cơ khí, vải vóc, vàng bạc, ngoại tệ, tổ chức đánh số đề v.v… bất chấp chỉ thị của Bộ Kinh Tế hay của chính quyền.
Sự lũng đoạn gay gắt đến nỗi năm 1965 Hội Đồng Cách Mạng, do tướng Nguyễn Cao Kỳ lãnh đạo, buộc phải thành lập một pháp trường cát ngay chợ Bến Thành để xử bắn gian thương. Một thương nhân gốc Hoa tên Tạ Vinh đã bị xử bắn về tội đầu cơ gạo. Mục đích của vụ án này nhằm răn đe nhóm tài phiệt gốc Hoa đang tung hoành trên thương trường miền Nam (xem Phụ lục 2). Nhưng sau vụ án này không có ai bị xử án tiếp, pháp trường cát đi vào lãng quên.
Cộng đồng người Hoa là một thế lực kinh tế tài chánh, văn hóa không ai phủ nhận. Người Hoa đến cửa công quyền được quí trọng và được dành cho nhiều ưu đãi. Có nhiều trường hợp thường dân Việt Nam đi lạc vào khu vực Chợ Lớn bị người Hoa coi thường như không nói tiếng Việt, không chào hàng, không tiếp chuyện… Chàng trai Việt nào kết thân được với một thiếu nữ gốc Hoa Chợ Lớn quả là một kỳ công.
Những người làm chính trị thời đó không ai không nghĩ đến việc cầu viện khả năng tài chánh của nhóm tài phiệt gốc Hoa để hoạt động. Các cấp lãnh đạo quân đội miền Nam (thời Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu) ai nấy cũng không nhiều thì ít đều có nhận tiền gián tiếp hay trực tiếp của giới tài phiệt gốc Hoa để hoạt động và làm của riêng. Nhiều quan chức lớn trong chính quyền được mời dự những cuộc tiếp tân sang trọng hay nhận được rất nhiều quà cáp của những thương gia Chợ Lớn. Đổi lại họ cung cấp cho tài phiệt gốc Hoa những “tuy-dô” làm áp phe lớn trước khi chính quyền ban hành sắc lệnh chính thức trong chương trình thiết kế đô thị, trợ cấp giá nhu yếu phẩm, hàng xuất nhập cảng.
Tuy là tác giả hưởng thụ chính trong cuộc chiến nhưng cộng đồng người Hoa không mấy hưởng ứng và tham gia trực tiếp vào cuộc chiến đấu chống cộng sản tại miền Nam. Đa số đã tìm cách chạy chọt để được miễn dịch hay trốn quân dịch. Tuy nhiên cũng có rất nhiều chiến sĩ gốc Hoa chiến đấu rất anh dũng trong các đơn vị quân đội thiện chiến và cũng đã không ít người hy sinh cho chính nghĩa miền Nam.
Sinh hoạt văn hóa nổi bật của cộng đồng người Hoa sau 1963 là phổ biến chữ Hán. Chữ Hán là biểu tượng của lối sống Trung Hoa : tự hào và khó hiểu.
Báo chí Hoa ngữ xuất hiện rất nhiều (11 nhật báo và 5 tuần báo) với số lượng phát hành khá cao trong các sạp báo nơi đông người Hoa cư ngụ. Báo phát hành buổi sáng gồm các tờ Viễn Đông nhựt báo 17.000 số/ngày, Thế Giới nhựt báo 12.000 số/ngày, Đại Hạ nhựt báo 7.000, Châu Á nhựt báo 7.000, Luận Đàng hằng ngày 4.000, Trung Quốc nhựt báo 2.000, Dân Tinh nhựt báo 1.000, Quần Thanh nhựt báo 1.000. Các báo phát hành buổi chiều : Vạn Quốc vãn báo 6.000 số/ngày, Việt Hoa vãn báo 5.000 số. Người Hoa có 5 tờ tuần báo : Quang Hạ, Trung Nam, Hoa Nam, Cầu Cầu và Du Lạc, mỗi tờ phát hành không dưới 5.000 số.
Nhiều trường dạy Hoa ngữ được tái hoạt động. Hệ thống trường trung học “công lập” có mặt khắp nơi do các bang hội đóng góp vốn, các trường này thường do một ban giam hiệu của ngữ phương gốc điều hành được sự chấp thuận của Bộ Giáo Dục. Hệ thống tư thục do các tư nhân giàu có bỏ vốn và tự điều hành cũng phát triển mạnh. Học phí tư thục rất cao, phẩm chất giảng dạy đương nhiên là cao vì có các giáo sư từ Đài Loan hay Hồng Kông đến dạy, chỉ con cái những gia đình người Hoa trung lưu mới đủ khả năng vào học.
Cấp I (tiểu học) gồm có các trường Thánh Tâm, Dật Tiên, Trung Chánh, Sanh Huy, Pháp Vân, Sùng Mãn, Nam Hải, Đức Trí, Khoan Tánh, Dương Minh, Nghĩa An, Trung San và Sùng Hoa.
Cấp II và III (trung học) gồm có các trường Quảng Đông Chợ Lớn, Phúc Kiến, Nghĩa An, Sùng Chính, Quảng Đông Sài Gòn, Chí Dũng, Sanh Chí, Quốc Dân, Lĩnh Nam, Chí Sanh và Nam Dương. Các trường này dạy tiếng phổ thông (Bắc Kinh) là chính, mỗi trường địa phương có dạy thêm ngôn ngữ riêng của từng bang. Tại các tỉnh lẻ, hệ thống các trường Tân Sanh rất tích cực, vừa dạy chữ Hoa vừa dạy nghề cho học sinh.
Tại một số trường, tiếng Việt chỉ là sinh ngữ 1 hoặc sinh ngữ 2. Bằng cấp các trường dạy tiếng Hoa có giá trị ngang với các trường học Đài Loan vì được giảng dạy theo chương trình giáo dục của Đài Loan. Chính quyền miền Nam không công nhận giá trị các bằng cấp của các trường tư thục gốc Hoa. Thường thì học sinh gốc Hoa sau khi tốt nghiệp phải ghi danh thi tốt nghiệp văn bằng của Việt Nam để được học tiếp bậc đại học hay đi làm. Những gia đình khá giả thường cho con em du học tại ngoại quốc (Đài Loan, Hồng Kông, Hoa Kỳ, Pháp), khi tốt nghiệp những sinh viên này trở về làm việc làm trong những cơ sở của người Hoa. Chỉ một số ít học sinh gốc Hoa học tại các trường Việt ngữ và Pháp ngữ (Marie Curie, Jean Jacques Rousseau, Yersin và Fraternité). Những sinh viên, học sinh gốc Hoa tốt nghiệp trường Việt hay trường Pháp làm việc trong các cơ sở Việt Nam giữ những chức vị cao vì có thực tài chứ không do đút lót. Một số đảm trách vai trò cố vấn hay lãnh đạo cao cấp trong các cơ quan hành chánh của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Sự đam mê văn hóa, lối sống Trung Hoa đã trở thành một hiện tượng. Sau 1966, phim truyện kiếm hiệp Trung Hoa tràn ngập thị trường Việt Nam, ảnh hưởng của nó rất báo động. Báo chí Việt Nam thời đó nếu không đăng truyện kiếm hiệp hay tình cảm Trung Hoa sẽ ít người đọc cho dù nội dung có giá trị tin tức, văn học hay chính trị cao.
Các rạp hát chiếu phim Việt Nam bị ế ẩm trong khi các rạp chiếu phim của phương Tây và Trung Hoa đông nghẹt người xem. Về sau phim kiếm hiệp và tình cảm của Đài Loan, Hồng Kông tranh dành và lấn áp ảnh hưởng phim ảnh của phương Tây. Phim truyện của các hãng Shaw Brothers (Thiệu Thị, Đài Loan) và Golden Harvest (Gia Hòa, Hồng Kông) rất được thanh thiếu niên miền Nam ưa chuộng. Từ sau 1970 phim võ của Lý Tiểu Long làm mưa làm gió trên các màn bạc tại Việt Nam. Người Việt Nam từ thành phần trí thức, sinh viên học sinh (kể cả du học sinh), cho đến anh công nhân lao động, bà nội trợ ai cũng mê và biết chút ít về phim ảnh và truyện kiếm hiệp Trung Hoa. Chủ nhân của hơn 20 rạp hát lớn tại Sài Gòn – Chợ Lớn là một người Hoa tên Trương Vĩnh Nhiên.
Những ai không biết điển cố hay nhân vật Trung Hoa trong các truyện Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc, Thủy Hử, Liêu Trai Chí Dị v.v… không phải là người sành điệu. Nhiều chính trị gia, trí thức, nhà báo viết nhiều loạt bài bình phẩm về truyện kiếm hiệp của Kim Dung, Ngọa Long tiên sinh. Có người còn trích những đoạn trong truyện để bình luận thời sự quốc tế và quốc nội. Sách truyện của Quỳnh Dao được truyền đọc khắp nơi trong các trường học, xóm bình dân. Tại khắp nơi, tiệm cho mướn truyện kiếm hiệp mọc lên như nấm. Nhiều thanh thiếu niên mơ ước trở thành những nhân vật trong truyện Trung Hoa để được người yêu mến chuộng. Tài tử Trung Hoa là thần tượng của tuổi trẻ Việt Nam, nhiều thanh niên không biết tiểu sử của các nhân vật lãnh đạo Việt Nam nhưng rất rõ đời tư của từng tài tử điện ảnh Hồng Kông hay Đài Loan.
Một người muốn được thiên hạ xếp vào hạng sành điệu phải biết các món ăn chơi tại Chợ Lớn, dám ăn óc khỉ, thú vui nhứt dạ đế vương, biết những tài tử Trung Hoa như Lý Tiểu Long, Vương Vũ, Khương Đại Vệ, Địch Long, Trịnh Phối Phối, Nhạc Huê, Cốc Phong, Lý Lệ Hoa, Lăng Ba, Lý Thanh, Miêu Khả Tú…, biết những nhân vật trong các truyện Tàu như Khổng Minh, Tào Tháo, Lưu Bị, Quan Vân Trường, Trương Phi, Hàn Tín…, biết những nhân vật tên tuổi trong các truyện kiếm hiệp Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp, Cô Gái Đồ Long, Lục Mạch Thần Kiếm, Lộc Đỉnh Ký như Vương Trùng Dương, Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong, Đoàn Chính Thuần, Quách Tỉnh, Hoàng Dung, Dương Qua, Tiểu Long Nữ, Trương Vô Kỵ, Triệu Minh, Lệnh Hồ Xung, Nhậm Doanh Doanh, Nhạc Linh San, Vi Tiểu Bảo, Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc, Du Thản Chi, Mộ Dung Phục, Vương Ngọc Yến, v.v…
Rất ít người thấy được nguy cơ Việt Nam có thể biến thành thuộc địa văn hóa của Trung Hoa, có người còn khuyến khích con em học tập, đọc và nghiên cứu các tác phẩm viết bằng chữ Hoa của Khổng tử, Mạnh Tử, Lão Trang, Lý Bạch, Tôn Tử, v.v… Nhiều người còn tìm mua các báo Hoa ngữ để đọc nguyên tác các truyện kiếm hiệp để tìm cảm hứng trực tiếp. Điển cố hay điển tích thời Xuân Thu hay Tam Quốc được trích dạy trong các sách giáo khoa. Gương hiếu thảo trong truyện Nhị Thập Tứ Hiếu (rất vô nhân) được trích để dạy thiếu niên. Khoa Hán văn trong các đại học Văn Khoa được rất nhiều sinh viên theo học. Nói được vài tiếng Quảng Đông hay Triều Châu là một thời thượng, biết được vài tiếng phổ thông càng được trọng nể hơn.
Những ngày lễ lạc là dịp để thương gia gốc Hoa đãi yến tiệc, phô trương thanh thế, những viên chức chính phủ luôn là khách danh dự. Lễ “điểm tinh khai quang” (điểm mắt cho đầu lân sư rồng) của các đội lân rất được nhiều người chú ý.
[“Điểm tinh” là một nghi thức quan trọng, các đội lân sư rồng đều tổ chức trọng thể trước khi “ra quân” biểu diễn mùa Tết. Lễ được cử hành trang trọng tại các chùa hay nhà hàng lớn. Các ân nhân, thân chủ, bạn bè của đội lân đều được mời tham dự. Thường người làm đầu lân bao giờ cũng chừa hai mắt lại. Người tài trợ chi phí làm lân được dành cho vinh dự “điểm tinh”. Người đại diện chính quyền luôn được hân hạnh nâng ly đầu tiên chúc mừng. Khi “điểm tinh”, người ta dùng nhánh trắc bá diệp (lộc đem tới nhiều may mắn) chấm vào dĩa rượu trắng hòa với Châu sa thần sa (màu đỏ) và gừng giã nhuyễn (gừng đồng âm với chữ An) rồi điểm vào hai mắt và lưỡi của lân và sư tử. Riêng rồng thì được điểm vào cả đuôi].
Vào các dịp tết Nguyên Đán, nhiều gia đình Việt Nam bắt chước người Hoa mua sắm những tấm liễn viết bằng chữ Hán màu vàng trên giấy đỏ để dán ở trước cửa nhà, nơi phòng khách hay bàn thờ. Thật sự người ta treo vì hình thức của liễn hơn vì nội dung, nhiều người không hiểu và không đọc được những gì viết trên đó. Nội dung những câu này hoàn toàn trái với nội dung những câu liễn của người Việt Nam viết ra trong các dịp lễ lạc mà nội dung mang nhiều ý nghĩa chính trị, đấu tranh “kêu” hơn. Hình ảnh các ông đồ xưa người Việt biến mất, nhưng tại Chợ Lớn những ông đồ già gốc Hoa xuất hiện đông đảo dọc các hè phố lớn, nhất là trên các đường Khổng Tử, Đồng Khánh, Hùng Vương, Tổng Đốc Phương v.v…
[Phần lớn liễn của người Hoa là loại liễn bốn chữ như Hòa khí sinh tài, Long mã tinh thân… Kế đến là loại liễn hai câu đối, mỗi câu bảy chữ như Bình an nhị tự trực thiên kim, Hòa thuận mãn môn thiên bách phước, hoặc Tài nguyên quãng tấn đạt tam giang, Sinh lý hưng Long thông tứ hải… Mỗi loại có vài ba chục câu trích trong các sách Tứ thư, Ngũ kinh… Có loại viết trên một tấm giấy đỏ vuông vức chỉ có một chữ như Phúc, Lộc Thọ, có loại được dùng để chúc tân gia, đám cưới hay mừng sinh nhật con mới sinh với chữ Song Hỷ].
Chợ Lớn, trước và nay, vẫn là biểu tượng sinh hoạt của cộng đồng người Hoa tại Việt Nam. Chợ Lớn là địa bàn hoạt động kinh doanh lý tưởng của bất cứ nhà đầu tư nào : gần các tuyến giao thông, hạ tầng cơ sở vững chắc, thị trường lớn, mãi lực cao, nhân công rẻ và có tay nghề, và nhất là có an ninh.
Nhưng Chợ Lớn vô tình bị biến thành một vùng đất biệt lập dành riêng cho người Hoa trong đó cơ sở kinh doanh, trường học, nhà thương, rạp hát, cơ sở văn hóa, nơi thờ phượng chỉ sử dụng ngôn ngữ của từng địa phương Trung Hoa. Các công viên tại Chợ Lớn hay ở những nơi đông cư dân gốc Hoa cư ngụ quanh chợ Bến Thành, mỗi buổi sáng tràn ngập các vị bô lão người Hoa tập thể dục (Thái cực quyền, Thái cực kiếm), biểu diễn võ công các môn phái Thiếu Lâm, Võ Đang v.v… Các ban nhạc tang cưới của người Hoa làm ồn ào và nhộn nhịp hẳn bộ mặt Chợ Lớn và Sài Gòn (quận 2 cũ, quận 6, 8, 10, 11), đôi khi làm cản trở lưu thông, nhưng không ai phiền trách. Những ngày lễ lớn : tết Nguyên Đán, Đoan Ngọ, Vu Lan, Trung Thu, khu vực Chợ Lớn và các chùa Tàu nhộn nhịp hẳn lên.
Mỗi quán nước, mỗi góc phố nơi đông người Hoa cư ngụ là những trung tâm áp phe, nhất là tại những nơi gần bến tàu, bến xe, các trục giao thông đường bộ hay đường sông. Những áp phe mang lại lợi tức cao của tài phiệt gốc Hoa là những dịch vụ đấu thầu cung cấp quân trang, quân dụng cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa, mua hàng của quân đội Hoa Kỳ (hàng PX, đồ phế thải), mua bán sắt, đồng vụn và các dịch vụ nhập cảng xe hơi, đường, sửa, bột ngọt, v.v…
Chợ Lớn là một vùng khó kiểm soát. Ai trốn được vào đây làm ăn, sinh sống, quân đội và cảnh sát Việt Nam đành bó tay. Trong suốt thời gian có chiến tranh, số người trốn quân dịch nơi đây rất cao và có đủ mọi giấy tờ giả mạo để hợp thức hóa sự hiện diện.
Lực lượng cộng sản cũng nhân cơ hội gia tăng các hoạt động xâm nhập và nhận tiếp liệu. Chợ Lớn ở gần những căn cứ địa của quân cộng sản (Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh) được du kích quân xem là hậu cần cho các lực lượng chính quy từ miền Bắc vào Nam chiến đấu. Tết Mậu Thân 1968 quân cộng sản xâm nhập vào đây, ngoài mục đích cảnh cáo cộng đồng người Hoa phải tích cực đóng góp tài chánh, họ cố ý tạo cơ hội cho quân lực Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa bắn phá các cơ sở kinh tế nhằm làm suy yếu tiềm năng kinh tế của miền Nam.
Hậu ý của cuộc tấn công Mậu Thân cũng nhằm khuyến cáo Trung Quốc gia tăng áp lực với cộng đồng Hoa kiều tại miền Nam làm hậu thuẫn cho ý đồ bành trướng chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và Đông Nam Á, đồng thời cũng để chính quyền miền Nam nghi ngờ tiềm lực kinh tế của cộng đồng người Hoa là tai mắt của cộng sản miền Bắc và Trung Quốc.
Tại đồng bằng sông Cửu Long, nhiều đội võ trang tuyên truyền Hoa vận ở Rạch Giá, ở xã Bình An, Vĩnh Hòa Hiệp (Kiên Giang) trực tiếp tấn công các đồn lính của Việt Nam Cộng Hòa nhưng thất bại, có rất nhiều người gốc Hoa bị bắt. Trong suốt những thập niên 1960-1970, nhiều gia đình gốc Hoa giàu có (chủ xe đò, chủ thuyền bè, chủ đất, thương lái) bị buộc phải cung cấp và vận chuyển hàng hóa vào các mật khu hay đóng những khoản tiền mãi lộ lớn cho tổ kinh tài cộng sản để được yên ổn làm ăn.
Nguồn tiền để mua thuốc men, lương thực và thực phẩm khô, ngoài những đường dây bí mật mang tiền Việt Nam Cộng Hòa từ Campuchia hay Hà Nội vào, để tiếp tế cho các lực lượng du kích miền Nam hay bộ đội miền Bắc vào Nam phần lớn là do những khoảng tiền bị cưỡng bách đóng cho Mặt Trận Giải Phóng của giới kinh doanh gốc Hoa tại Chợ Lớn và đồng bằng sông Cửu Long. Những toán kinh tài cộng sản hoạt động rất tích cực trong giới thương gia người Hoa.
Trước khi bị bắt, Trần Khắc Đức đã phải trải qua một thời gian dài…
Có những biến cố thoạt nhìn chỉ như một cơn bão nhỏ trong một đất…
Ngày 17/9, Cơ quan An ninh Điều tra Bộ Công an mới ra Quyết định…
Mà không chỉ dạy cho thế hệ trẻ. Phải nhồi vào tai, phải nhét vào…
Phan Tất Thành đã lặng lẽ dấn thân, không ồn ào, không cần ai công…
Một ủy ban điều tra của Liên Hợp Quốc cho biết Israel đã phạm tội…