Trước và sau ngày 30/04/1975, một số gia đình gốc Hoa giàu có tại miền Nam, nhất là tại Sài Gòn – Chợ Lớn, đã theo đoàn người vĩ đại di tản ra nước ngoài. Phần lớn chọn định cư tại Hoa Kỳ, Canada, Úc và Pháp, một số khác chạy sang Hồng Kông hay Đài Loan, số còn lại, rất ít, chọn định cư tại Singapore và Thái Lan.
Sau khi đã hoàn tất việc đưa đi cải tạo những thành phần công nhân viên chức trung cao cấp và quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cũ, chế độ cộng sản cho thi hành ngay chính sách cải tạo công thương nghiệp tại miền Nam. Công cuộc cải tạo kinh tế miền Nam không những chỉ áp dụng riêng cho người Việt mà còn cho cả người gốc Hoa đang nắm giữ phần lớn hạ tầng cơ sở của nền kinh tế miền Nam. Xã hội Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với những hậu quả và biến thái của chính sách này.
Tất cả những cơ sở sản xuất, chế biến lớn tại miền Nam hoặc bị quốc hữu hóa, hoặc bị đưa vào hợp doanh với tỷ lệ bắt buộc 51% thuộc chính quyền (một hình thức quốc hữu hóa khác). Những cơ sở nhỏ kiểu gia đình được biến cải thành những hợp tác xã, chịu sự chi phối của Bộ, Sở Nông Nghiệp, Công Nghiệp hay Thương Nghiệp. Những cơ sở tôn giáo, văn hóa, y tế, xã hội đều bị chính quyền cộng sản quản lý hay bị tịch thu. Những người Hoa còn lại buộc phải sống với chế độ mới, một chế độ không chấp nhận sinh hoạt thương mại tư nhân. Đất đai, ruộng đất, vườn tược của những nông dân gốc Hoa đồng bằng Cửu Long hoặc bị tịch thu, hoặc bị đưa vào hợp tác hóa. Các bang hội của người Hoa đều bị cấm hoạt động. Nhà cửa, cơ sở làm ăn của những người gốc Hoa trốn chạy và thành phần giàu có bị trưng thu và sau đó biến thành những cơ quan công quyền, cơ sở quốc doanh hay nhà riêng của cán bộ.
Trong suốt thời gian quân quản (1975-1976), chính quyền cộng sản mở nhiều cuộc tảo thanh, truy lùng, bắt bỏ tù, đưa đi cải tạo hay đày những thành phần tư sản mại bản (tài phiệt) lên các “vùng kinh tế mới”. Tiếp theo sau là chiến dịch chống đầu cơ tích trữ, lũng đoạn thị trường (1978-1982), nhiều gia đình tư sản miền Nam cùng với những gia đình tư sản gốc Hoa bị tịch thu toàn bộ sản nghiệp, tất cả bị đưa đi cải tạo và không ít người đã chết trong các trại tập trung. Tất cả những chiến dịch này nhằm cải tạo xã hội miền Nam theo lô-gích xã hội chủ nghĩa.
Nhiều đợt đổi tiền (1975, 1978 và 1985) đã xảy ra nhằm kiểm soát và hạn chế khối lượng tiền mặt khổng lồ nằm trong tay những gia đình giàu có miền Nam, đặc biệt là người gốc Hoa. Địa bàn Sài Gòn – Chợ Lớn và các thị xã lớn ở miền Nam là trọng tâm chính của chiến dịch. Chủ đích của những chiến dịch này là tịch thu, trưng dụng tài sản của những người giàu có đem về miền Bắc như là chiến lợi phẩm và làm suy yếu tiềm năng kinh tế của người gốc Hoa. Nói chung, người cộng sản đã làm được những gì mà các chính quyền cũ miền Nam muốn làm nhưng không dám làm : loại trừ thế lực kinh tế của người Hoa.
Chính sách cải tạo, phân biệt đối xử tại miền Nam có lẽ là sai lầm to lớn nhất của chế độ cộng sản : tiêu diệt tiềm năng phát triển của đất nước, Việt Nam trở thành một nước nghèo khó. Niềm tin của thành phần dân chúng nghèo khó miền Nam đối với chế độ mới giảm dần. Cuộc sống trở nên cơ cực, không còn ai dám đầu tư lâu dài trên đất nước. Người khá giả bỏ ra đi, trí thức bất hợp tác, cán bộ nhà nước không có khả năng quản trị, nạn cửa quyền, tham nhũng lan tràn khiến xã hội trở nên bất trị. Thế giới bên ngoài ngoảnh mặt với Việt Nam. Tình cảnh xã hội trong giai đoạn này rất là đen tối.
Trong bối cảnh xã hội đó, cộng đồng người Hoa vẫn tiếp tục sống với những gì còn lại, họ làm bất cứ nghề gì có thể làm để được sinh tồn từ mua bán ve chai, buôn chui bán lậu hàng quốc cấm đến vàng bạc, ngoại tệ, đá quí kể cả việc tổ chức đưa người vượt biên… Dân chúng gốc Hoa từ khắp nơi đổ về Sài Gòn – Chợ Lớn tạm trú, hiện tượng mua chuộc cán bộ, làm giấy tờ giả để nhập hộ khẩu lan tràn. Người Hoa không thể công khai buôn bán như trước vì các cửa hàng tư doanh đều bị đóng cửa, họ tràn ra lề đường mua bán. Hiện tượng chợ trời phát sinh từ đó. Sự kiện này xuất hiện đồng loạt với những gia đình người Việt miền Nam cũng ra ngồi lề đường buôn bán. Người Việt và Hoa buôn bán đủ loại đồ cũ : chén bát, nồi niêu, xoong chảo, máy móc điện tử, đồ kim khí, phụ tùng xe hơi, xe gắn máy, xe đạp, thuốc tây, thuốc lá, rượu ngoại, đồ hộp, ngoại tệ, vàng bạc nữ trang… Hàng hóa thượng vàng hạ cám đều đem ra mua bán ngoài sự kiểm soát của nhà nước.
Một hiện tượng mới xuất hiện : cửa hàng quốc doanh không có hàng để bán, thị trường chợ đen tràn ngập hàng hóa và phẩm chất tốt hơn hàng quốc doanh. Hệ thống mua bán chợ đen, mà hàng hóa vẫn có xuất xứ từ Sài Gòn – Chợ Lớn và ngoại quốc, thách thức thị trường quốc doanh. Nguồn hàng tư doanh thường do người Hoa làm chủ, chính họ sản xuất ra và cũng chính họ tìm cách tiêu thụ lấy. Người Hoa đã tỏ ra rất tích cực trong sinh hoạt mới này, họ làm chủ giá cả trên khắp các thị trường chợ trời, chợ đen và trong vài trường hợp làm chủ luôn nguồn hàng quốc doanh bằng cách mua cao hơn giá bán tại các cửa hàng nhà nước. Thị trường chợ đen giá cả tuy có đắt nhưng bán bao nhiêu cũng được, mua bao nhiêu cũng có. Nói chung thị trường chợ đen lấn áp thị trường quốc doanh.
Chế độ cộng sản đã tính lầm trong việc làm suy yếu tiềm lực kinh tế của người gốc Hoa. Nếu họ loại trừ được một số tài phiệt lớn bằng cách bắt giam, bỏ tù, tịch thu toàn bộ tài sản thì họ cũng làm nẩy sinh vô số con buôn nhỏ. Những gia tộc buôn bán lớn gốc Hoa bị loại trừ thì nhiều gia đình nhỏ sinh sôi nẩy nở. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa giống như giọt nước. Giọt nước lớn vỡ tan nó sẽ biến thành vô số hạt nước nhỏ, khi có cơ hội những giọt nước nhỏ sẽ tụ lại thành giọt nước lớn. Chế độ cộng sản rất muốn tiêu diệt hiện tượng chợ trời này nhưng đã tỏ ra bất lực. Sự biến thể này xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng, và có nơi có sự đồng lõa của cán bộ chính quyền do ăn hối lộ hay bị mua chuộc.
Báo cáo của Đảng Cộng Sản Việt Nam (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI), năm 1986, xác nhận “Nền kinh tế nước ta thời kỳ 1976-1980 có chiều hướng đi xuống : tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1,4% hàng năm, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%, trong khi dân số tăng 2,24% một năm. Do những yếu kém trong quản lý kinh tế kinh tế, nên cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền (tháng 9/1985) lại đẩy nền kinh tế vào tình trạng lạm phát và khủng hoảng trầm trọng”. Sau Đại hội VI năm 1986, chính quyền cộng sản thay đổi chính sách quản lý kinh tế : chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Tư thương gốc Hoa được dịp sinh hoạt công khai trở lại, nhưng quan hệ xã hội không còn như trước.
Người Hoa đã làm hủ hóa gần như toàn bộ các cấp lãnh đạo cộng sản tại miền Nam, đồng thời cũng giúp rất nhiều gia đình chế độ cũ miền Nam sống được và thách đố sự kềm kẹp của chế độ cộng sản. Có lẽ đây là lần đầu tiên người Việt miền Nam và người Hoa cùng chia chung với nhau một thân phận chung, thân phận bị chà đạp và bị chèn ép công khai và không nhân nhượng. Vô tình chế độ cộng sản làm người Hoa và người Việt miền Nam gắn bó với nhau hơn. Dân chúng miền Nam tự nhiên có nhiều cảm tình với cộng đồng người Hoa, họ bao che những chuyện mua chui bán lậu của người Hoa vì qua đó họ cũng được chia phần. Rất nhiều gia đình người Việt đã tham gia vào hệ thống mua chui bán lậu này, nhờ đó mà nuôi sống được cả gia đình, có người còn phát tài lớn. Động cơ tư lợi cũng đã làm mờ mắt một số cán bộ, có nơi các quan chức địa phương còn hợp tác với gian thương để thu lợi riêng.
Chính quyền cộng sản rất muốn loại trừ thách đố này nhưng không làm được. Nhiều gia đình gốc Hoa giàu có mới bị bắt và bị tịch thu tài sản, nhiều gia đình khác lại xuất hiện. Nạn buôn lậu, mua bán chợ đen không sao dẹp được. Những cố gắng của chế độ cộng sản chỉ làm trầm trọng thêm một hiện tượng không có giải pháp. Đời sống càng khó khăn, dân chúng càng tham gia buôn chui bán lậu kể cả thành phần cán bộ, bộ đội, công nhân viên nhà nước. Cũng không thể bóp nghẹt hoạt động kinh tế tư doanh khi không thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu tối thiểu của thị trường. Chính cán bộ nhà nước ăn cắp của công ra bán lại trên thị trường chợ đen, có người còn trực tiếp tham gia buôn lậu để kiếm lời.
Chính sách được áp dụng, tuy không nói ra, là buông xuôi, khôn thì sống dại thì chết. Chính quyền cộng sản cứ bắt, người ta cứ buôn. Tổng số cán bộ được tuyển dụng để rình mò sinh hoạt kinh tế của dân chúng miền Nam nói chung và của người Hoa nói riêng đông hơn lực lượng quân đội đồn trú tại các thành phố lớn. Riêng tại quận 5 Sài Gòn, lực lượng công an Bảo Vệ Kinh Tế 3 đã có đến vài ngàn người. Nếu biết mua chuộc, lực lượng này sẽ bảo vệ tích cực những dịch vụ kinh doanh bất hợp pháp. Những người bị bắt về tội “buôn bán trái phép” (chợ đen) thường là những con buôn nhỏ, đa số là người Việt, không đủ tiền mua chuộc cán bộ phường khóm và công an kinh tế. Một số tư thương Việt bị kết án làm gương để bao che sự lũng đoạn của doanh nhân gốc Hoa hay những hành vi tham nhũng của cán bộ.
Điểm tích cực của chế độ cộng sản là đã làm cho người Việt, trước kia vốn quen sống với phong cách làm công, nay biết mua bán và thích mua bán. Mặc dầu với số vốn ít oi, nhiều gia đình người Việt vẫn có thể mua xuôi, bán ngược với nguồn hàng do người Hoa sản xuất để tồn tại. Và trong một vài trường hợp có người còn dám đảm trách luôn một số khâu sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong các lãnh vực cơ khí, điện lạnh, chế biến cao su, cưa cây xẻ gỗ, v.v… Một số nghề khai thác dịch vụ của người Việt trước kia do người Hoa nắm giữ đã thành hình và phát đạt, đó là nghề tổ chức đánh số đề, phục vụ ăn uống và giải trí. Những quán cóc, quán chè, quán nước mọc lên nhan nhãn. Dịch vụ này xuất hiện rất tình cờ trước hết là để giải quyết sinh kế gia đình, kế là đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của dân chúng ngày càng cao. Một số gia đình được thân nhân từ hải ngoại gởi tiền hàng về tiếp tế và một số tay buôn chợ trời khá giả đã tỏ ra rộng rãi khi tiêu tiền. Đồng tiền dễ dãi này là động cơ chính để một tư thương gốc Hoa tìm cách hấp thụ.
Các cửa hàng ăn uống của người gốc Hoa được đông đảo người Việt ra vào. Chợ trời chuyên bán hàng “ngoại” cũng đã xuất hiện trên địa bàn Chợ Lớn và phụ cận : máy móc điện tử, nhạc nổi, hàng xa xỉ để thỏa mãn nhu cầu của thành phần có tiền mới. Những khu ăn chơi bình dân xuất hiện ngày càng nhiều trong địa bàn quận 5 (Chợ Lớn cũ) và lân cận (Ngã Sáu, Ngã Bảy Sài Gòn, Chợ Cũ…). Phim ảnh và truyện Tàu được chuyền tay nhau nhiều hơn giữa người Việt, nhiều hơn thời Việt Nam Cộng Hòa. Phim vidéo Hồng Kông tràn ngập các thành phố miền Nam và miền Bắc, hình ảnh tài tử, minh tinh màn bạc Hồng Kông, Đài Loan một lần nữa được tôn lên làm thần tượng của giới trẻ thành thị. Nhiều tụ điểm chiếu phim lậu được thành hình, phim “Tàu” được giới bình dân ngưỡng mộ nhất. Các chương trình văn nghệ như cải lương, phim truyện Việt Nam phải bắt chước những màn đấu võ hay diễn xuất kiểu Hồng Kông hay Đài Loan mới ăn khách. Có lẽ đây là hành vi tiêu cực chống lại chế độ một cách tích cực nhất, và là dấu hiệu chấp nhận đánh mất bản thể Việt Nam để mang bản thể Trung Hoa. Nhà nào có một tấm lịch tài tử Hồng Kông treo tường trong phòng khách được xem như là nhà có “thớ” (sành điệu và khá giả) nhất.
Người Hoa trong giai đoạn này đã thiết lập được nhiều đường dây trao đổi bí mật giữa riêng họ với nhau tránh được sự ruồng bố của chế độ, nhất là trong các dịch vụ buôn bán ngoại tệ, quí kim và tổ chức đưa người vượt biên. Có khi họ còn trao đổi được cả với những tàu buôn Hồng Kông, Singapore hay Nhật Bản ngoài khơi hải phận quốc tế. Những đường dây này luôn có sự đồng lõa, bao che của những cán bộ cao cấp trong chính quyền. Có nơi họ còn được quân xa, xe công vụ, xe tải và thương thuyền quốc doanh chở hàng từ ngoại thành và các tỉnh lẻ về Sài Gòn – Chợ Lớn hay từ Sài Gòn – Chợ Lớn lên các vùng biên giới Việt-Miên hay Việt-Hoa. Cho đến nay những đường dây này vẫn tồn tại và phát triển mạnh. Nếu trên toàn quốc có nạn thiếu ăn, khan hiếm hàng hóa thì riêng tại Sài Gòn – Chợ Lớn hàng hóa không những dư thừa mà còn có dư để xuất khẩu.
Tại miền Nam từ 1975 đến 1980, hàng chục ngàn người đã bị chế độ cộng sản bắt giam vì tình nghi có hoạt động chính trị với những tội danh như “tham gia tổ chức phản động”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, “chống lại chủ nghĩa xã hội”. Họ là những trí thức, sinh viên, học sinh, nông dân, cựu quân nhân không chấp nhận sự cai trị hà khắc và đàn áp của chính quyền cộng sản. Trong không khí khủng bố tinh thần đó, cộng đồng người Hoa cũng là đối tượng bị trấn áp, Chợ Lớn sống trong tình trạng bị căng thẳng toàn diện. Nhóm Phục Hưng Quốc, do Quốc Hùng Khanh thành lập có liên hệ với tổ chức FULRO, bị phá vỡ năm 1976. Nhiều phong trào chống đối đã xảy ra tại Chợ Lớn trong những năm 1978-1979 sau vụ “nạn kiều” vì bị chèn ép và phân biệt đối xử hơn là hoạt động có lợi cho Trung Quốc.
Không kể những nhân vật gốc Hoa đã bị bắt về những tội danh như tay sai của Bắc Kinh hay lũng đoạn thị trường, nhiều người Hoa khác tham gia chống đối chế độ cộng sản vì những mục đích cao đẹp hơn : góp sức thay đổi chế độ độc tài bằng một chế độ tự do, dân chủ. Mặt Trận Liên Tôn của linh mục Nguyễn Văn Vàng có nhiều cán bộ gốc Hoa tham gia và cùng đã bị bắt với linh mục Vàng năm 1977. Mặt Trận Dân Tộc Tiến Bộ của bác sĩ Nguyễn Đan Quế có nhiều người gốc Hoa tham gia và cùng bị bắt với bác sĩ Quế năm 1978.
Người Sài Gòn chia sẻ với người Hoa Chợ Lớn tai họa này. Sau những đợt khủng bố, nhiều người đã phụ giúp một số người Hoa tẩu tán tài sản và bao che những dịch vụ làm ăn của họ. Một số dịch vụ được chuyển hẳn cho người Việt Nam, đặc biệt là nghề chủ đề. Thương nhân gốc Hoa giàu có tránh né tham gia trực tiếp buôn bán, họ chỉ làm cố vấn hay gián tiếp cung cấp tiền cho những tay em hoạt động. Một số thương nhân mới từ miền Bắc vào cũng đã làm quen và làm ăn chung với người Hoa miền Nam, hàng tiêu dùng từ Chợ Lớn ào ạt tuôn ra miền Bắc và vượt qua biên giới Hoa-Việt.
Tại miền Bắc, người Hoa không có cái may mắn của những đồng hương miền Nam. Đời sống của họ vẫn cơ cực như trước. Một điều lạ là giữa người Hoa với nhau vẫn có sự kỳ thị địa dư xuất thân. Người Hoa miền Bắc là công nhân nông trường, hầm mỏ, chuyên viên kỹ thuật chế biến công nghiệp không được cộng đồng người Hoa miền Nam nâng đỡ. Có lẽ một phần do cộng đồng người Hoa miền Bắc còn giữ nhiều liên hệ mật thiết với Trung Quốc, chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản nên bị đồng hương miền Nam nghi kỵ hay đúng hơn bị kỳ thị.
Thế lực kinh tế của người Hoa miền Bắc đã bị loại trừ trước 1975, do đó không có điều kiện thách đố lại chính quyền cộng sản. Những người còn lại không có óc thương mại cao, bị cắt đứt quan hệ với những cộng đồng Hoa kiều Đông Nam Á không có điều kiện phát triển kinh tế riêng. Cộng đồng người Hoa miền Bắc chịu nhiều hậu quả trực tiếp về mối quan hệ Việt-Trung : khi hai nước quan hệ tốt họ được nhờ, khi quan hệ sứt mẻ họ là nạn nhân.
Quan hệ Việt-Trung bắt đầu có triệu chứng sức mẻ từ năm 1967 khi đại diện của đảng cộng sản Trung Quốc ở Lào lôi kéo một số cán bộ cộng sản Nam Lào chống lại cộng sản Pathet Lào và Việt Nam. Năm 1968 khi Hồ Chí Minh vừa từ trần, Bắc Kinh vận động những người lãnh đạo trong Đảng Cộng Sản Việt Nam ngã về Trung Quốc bằng cách tiếp tục viện trợ ồ ạt tiệp liệu quân sự và hàng hóa, đồng thời mời Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh cùng một số ủy viên trong bộ chính trị sang Trung Quốc để trấn an.
Trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam, phe thân Trung Quốc tranh thủ những chức vị cao trong chính quyền, nhưng sự tranh giành địa vị bị đình hoãn vì chiến tranh đang leo thang tại cả hai miền. Liên Xô, không muốn mất cơ hội duy nhất để có mặt tại Đông Nam Á, đã viện trợ một cách tích cực tiền bạc và vũ khí tối tân hơn cho miền Bắc. Thế giằng co ảnh hưởng ở trong vòng tranh chấp từ 1968 đến 1972, đó cũng là thời gian mà Hoa Kỳ muốn hòa giải với Trung Quốc và cũng là thời kỳ đang có bàn thảo về một hiệp ước đình chiến tại Đông Dương giữa Washington và Hà Nội.
Năm 1972, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon chính thức viếng thăm Bắc Kinh để bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước và công nhận Trung Quốc là đại diện chính thức tại Liên Hiệp Quốc. Một thế chiến lược mới đang được thành hình : Hoa Kỳ muốn Trung Quốc trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á để tạo thế cân bằng lực lượng trong vùng tây-bắc Thái Bình Dương trước lực lượng hải quân Liên Xô ngày càng hùng mạnh. Trung Quốc, cũng muốn phá vỡ thế bị “đế quốc Liên Xô” bao vây, đã tìm mọi cách tách miền Bắc Việt Nam ra khỏi vòng ảnh hưởng của Liên Xô.
Trung Quốc không bao giờ muốn Việt Nam là một quốc gia hùng mạnh cả về quân sự lẫn kinh tế, vì đó là mũi dao có thể đâm vào cạnh sườn Trung Quốc từ phía nam. Thực ra Trung Quốc cũng lo ngại Bắc Việt tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc trong vùng Đông Nam Á, không muốn Bắc Việt tiến chiếm miền Nam vì biết Hà Nội đang có ý đồ thành lập một Liên Bang Đông Dương do Việt Nam lãnh đạo nếu chiếm được miền Nam. Đông Nam Á là khu vực mà từ lâu Trung Quốc đã tốn rất nhiều công sức để gây dựng ảnh hưởng do đó không thể đứng yên nhìn Hà Nội độc quyền chiếm lấy. Từ đầu năm 1972, Bắc Kinh giảm viện trợ quân sự, không lên tiếng về những phi vụ dội bom miền Bắc của không quân Hoa Kỳ và làm áp lực buộc Hà Nội ký hiệp định Paris về ngừng bắn. Quan hệ Việt-Trung hết phần thắm thiết, tuy nhiên Hà Nội cũng không dám lên tiếng đả kích Bắc Kinh vì gần 80% quân trang quân dụng của bộ đội miền Bắc đến từ Trung Quốc.
Trong khi đó tại miền Nam, quân cộng sản miền Bắc gia tăng áp lực quân sự, những hoạt động này cần rất nhiều viện trợ quân sự. Hà Nội buộc phải cầu viện Liên Xô và các quốc gia Đông Âu vũ khí và tiền bạc. Hà Nội cũng biết rõ những mưu đồ của Trung Quốc nên đã bằng mọi cách tránh né việc để Trung Quốc có cơ hội tham gia vào những quyết định nội bộ về chính trị và quân sự, nhất là trong cuộc tiến công mùa xuân 1975 vào miền Nam.
Năm 1976 khi Mao Trạch Đông vừa từ trần, Bắc Kinh làm áp lực quân sự với Hà Nội buộc phải nương tay trong việc cải tạo công thương nghiệp miền Nam, nhất là đối với người Hoa. Hồng quân Trung Quốc nhiều lần xua quân xâm phạm vùng biên giới phía bắc. Hà Nội tố cáo Bắc Kinh tung gián điệp vào hoạt động trong nội địa Việt Nam và lên án sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội “chỉ đạo những hoạt động phá hoại của những nhóm người Hoa trên các lãnh vực chính trị, tư tưởng, quân sự và kinh tế”.
Tháng 4/1975 lực lượng phe Khmer đỏ, do Trung Quốc đỡ đầu, chiếm Nam Vang và xua dân cư thành thị về vùng nông thôn. Hàng triệu người Khmer thành thị đã bỏ mình trong những trại tập trung hay bị hành quyết một cách dã man. Việt kiều sinh sống tại Campuchia và người Khmer gốc Hoa chạy sang Việt Nam lánh nạn. Năm 1976 Khmer đỏ tổ chức nhiều vụ khiêu khích quân sự dọc biên giới Tây-Nam (Việt-Miên) không cho cộng sản Bắc Việt yên tâm cải tạo công thương nghiệp miền Nam và thực hiện ý đồ thành lập Liên Bang Đông Dương đe dọa vùng Đông Nam Á.
Trung Quốc cũng tìm cách lôi kéo chính quyền Pathet Lào tại Vientiane vào vòng ảnh hưởng nhưng không thành công. Năm 1978, Bắc Kinh đưa 30.000 quân vào 5 tỉnh phía bắc Lào (Luang Namtha, Udomsay, Phongsaly, Luang Prabang và Sầm Nưa) trên một tuyến dài 1.000 km bảo vệ việc xây dựng tuyến đường sắt hữu nghị Lào-Trung, và dự định tái thiết quốc lộ 13 chạy suốt chiều dài đất nước Lào dẫn xuống cảng Kompong Som miền Nam Campuchia để tiếp tế cho chính quyền Khmer đỏ.
Thấy trước ý đồ bành trướng của Bắc Kinh, Hà Nội ký một hiệp ước với Lào hoạch định khu vực biên giới giữa hai nước ngày 18/7/1977, rồi tức tốc đưa hơn 50.000 bộ đội vào miền Trung và Nam Lào bảo vệ chính quyền Pathet Lào, và cũng để làm áp lực không cho quân Trung Quốc tiến xuống Nam Lào. Năm 1978, Hà Nội tố cáo Bắc Kinh lợi dụng Hoa kiều sống tại Lào chống phá chính quyền Vientiane và xúi dục Khmer đỏ tiến công các làng xã dọc vùng biên giới Tây Nam.
Xích mích giữa Trung Quốc và Việt Nam trở nên công khai kể từ 1978. Hai bên đã không tiếc lời thóa mạ nhau trên các diễn đàn quốc tế và quốc nội. Bắc Kinh tố cáo Hà Nội là “tiểu bá khu vực” với ý đồ thuộc địa hóa hai nước Lào và Campuchia trong Liên Bang Đông Dương. Hà Nội tố cáo Bắc Kinh tiến hành chiến tranh phá hoại về nhiều mặt chống lại Việt Nam và thực hiện “chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán”.
Tháng 2/1978, Khmer đỏ tung ra một Sách Đen : “Sự việc và chứng cớ của các hành động xâm lược và thôn tính Campuchia của Việt Nam”. Để trả đũa, Hà Nội tố cáo “bọn tay sai Pol Pốt, Iêng Sary” đang điên cuồng thực hiện chủ nghĩa “vị chủng Cao Miên”, “bài Việt”, được “mao-ít hóa ở mức độ qui mô và mức độ cực đoan nhất, phản động nhất, tàn bạo nhất”.
Sự kiện Việt Nam gia nhập khối COMECON ngày 29/6/1978 và hiệp ước hữu nghị và hợp tác ký giữa Việt Nam và Liên Xô ngày 3/11/1978 là một thái độ dứt khoát của cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc : Việt Nam là một đồng minh của Liên Xô. Để giằng mặt Bắc Kinh, Hà Nội cho Liên Xô sử dụng những hải cảng chiến lược Hải Phòng, Cam Ranh, Đà Nẵng để trú quân và thiết lập căn cứ quân sự.
Năm 1979, Hà Nội cho phổ biến rộng rãi một Sách Trắng : “Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua”, trong đó phơi bày những âm mưu của Trung Quốc nhằm cản trở công cuộc tiến chiếm miền Nam và làm suy yếu thế lực của cộng sản miền Bắc. Đài phát thanh Hà Nội cho phát chương trình “Sự thật lên tiếng” để đả kích Trung Quốc và những người Hoa trong nước làm tay sai cho Bắc Kinh.
Quan hệ Việt-Trung sứt mẻ không thể hàn gắn. Trung Quốc nêu ra những văn kiện lịch sử năm 1956 với sự đồng tình của chính quyền cộng sản Bắc Việt, Phạm Văn Đồng lúc đó đang làm thủ tướng và đã im lặng trước sự tuyên bố về lãnh thổ của Trung Quốc, để tái xác nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trưng bày nhiều bí mật quân sự từ lâu được dấu kín (trận Điện Biên Phủ năm 1954)…
Năm 1979, cựu lãnh tụ cộng sản Hoàng Văn Hoan (bạn chí thân của Hồ Chí Minh) trốn sang Trung Quốc. Những cán bộ cộng sản Việt Nam thân Trung Quốc lần lượt vượt biên được Bắc Kinh tiếp đón nồng hậu (các ông Trương Như Tản, Nguyễn Công Hoan v.v…). Những người này được Bắc Kinh cho lên đài phát thanh tố cáo Đảng Cộng Sản Việt Nam và kêu gọi dân chúng, bộ đội nổi lên lật đổ chế độ. Không khí chiến tranh bao trùm khắp vùng biên giới, các cửa khẩu dọc biên giới bị lực lượng võ trang hai nước canh chừng ráo riết.
Tháng 12/1978, Hà Nội ra lệnh tiến quân sang “giải phóng” nước Campuchia dân chủ do Khmer đỏ lãnh đạo. Quân Khmer đỏ bị đánh bật ra khỏi Phnom Penh, Battambang và các thành phố lớn, sau đó phải chạy qua biên giới Thái Lan lánh nạn. Từ vùng biên giới Thái-Miên, Khmer đỏ tổ chức lại lực lượng, tiến hành chiến tranh du kích chống lại bộ đội cộng sản miền Nam. Hơn 100.000 bộ đội Việt Nam được đưa sang Campuchia trong những ngày đầu.
Để bênh vực cho đàn em của mình và chuẩn bị “dạy cho Việt Nam một bài học”, Trung Quốc làm lớn vụ “nạn kiều” để tranh thủ dư luận quốc tế. Dọc biên giới, Trung Quốc dàn hơn 600.000 binh lính với súng ống đủ loại. Trong hai năm 1978-1979, hơn 5.000 cuộc pháo kích và khiêu khích quân sự từ phía Trung Quốc được ghi nhận tại các tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng. Từ tháng 2/1979, theo lời của chính quyền Hà Nội, “Bắc Kinh tiến hành xâm lược Việt Nam với qui mô lớn thông qua tư sản Hoa và những phần tử phản động người Hoa để thực hiện cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện đối với ba nước Đông Dương”.
Chuẩn bị đón chờ một cuộc tấn công đại qui mô của Trung Quốc, ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đưa hơn bốn trăm ngàn bộ đội lên vùng biên giới phía bắc phòng vệ. Các chính quyền địa phương tổ chức lại lực lượng dân quân du kích và củng cố vai trò lãnh đạo trên các bộ lạc gốc Hoa miền núi. Nhiều tuyến phòng thủ được thành lập từ Hà Nội đến vùng Cao-Bắc-Lạng. Các cửa khẩu dọc biên giới đều bị quân Trung Quốc chiếm đóng từ cuối năm 1978.
Chiến tranh Hoa-Việt đã xảy ra dọc các tỉnh vùng biên giới trong những tháng 2 và 3/1979 làm thiệt mạng hàng chục ngàn binh lính của đôi bên, hàng chục ngàn người khác bị bắt làm tù binh. Hàng triệu cư dân miền Bắc phải sơ tán, hàng ngàn nhà cửa, cơ sở vật chất tại các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Quảng Ninh bị phá hủy. Cầu cống, cơ sở hạ tầng tại các tỉnh trên đều bị phá hoại không còn sử dụng được. Cơ xưởng, xí nghiệp, nhà máy ven biên đình chỉ mọi hoạt động.
Hà Nội tố cáo Trung Quốc tổ chức những bộ lạc thiểu số gốc Hoa xâm nhập quấy phá vùng biên giới phía bắc Lào và Hoàng Liên Sơn. Hà Nội cũng lớn tiếng lên án nhóm Hoàng Văn Hoan móc nối những người Hoa di tản sang Trung Quốc và các phần tử sắc tộc khác tổ chức thành những lực lượng võ trang tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Hà Nội tố cáo Bắc Kinh tổ chức lại đám tàn quân Pol Pốt trên đất Thái Lan để tiến công quân sự vào Campuchia và đưa “các phần tử phản động người Hoa từ địa bàn Thái Lan qua Campuchia vào miền Nam Việt Nam ngày càng tăng” (ý muốn ám chỉ dân buôn lậu).
Sau khi hoàn toàn thắng lợi trên đất Campuchia, cộng sản Việt Nam thành lập một chính quyền Khmer thân Việt Nam thay thế lực lượng Khmer đỏ. Hàng triệu người Khmer được giải thoát khỏi nạn diệt chủng, hàng trăm ngàn người qua Việt Nam và Thái Lan tị nạn và sau đó được định cư trên khắp thế giới, trong đó có hàng chục ngàn gia đình người Khmer gốc Hoa.
Các tổ chức nhân đạo quốc tế và Liên Hiệp Quốc viện trợ vào Campuchia thực phẩm, thuốc men, hàng tiêu dùng để dân tộc Khmer thoát khỏi nạn đói và bệnh tật. Một phần lớn số tiếp liệu đó được giới buôn lậu mua lại từ các quan chức chính quyền Khmer và bộ đội Việt Nam để chuyển về Sài Gòn – Chợ Lớn bán lại cho dân chúng vì đời sống của người Việt Nam cũng đang thiếu thốn. Thương lái gốc Hoa chủ động thu mua lại và tồn trữ nguồn hàng lậu này, sau đó cung cấp lại cho giới tiêu dùng người Việt trên khắp các chợ trời. Thương nhân Khmer gốc Hoa và gốc Chăm sống lại nhờ những dịch vụ trao đổi hàng hóa qua biên giới giữa hai nước ngày càng tăng, nhất là khi được thương nhân gốc Hoa Chợ Lớn và đồng bằng sông Cửu Long tiếp sức.
Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Việt Nam-Campuchia được ký ngày 18/2/1979, qua đó Việt Nam đảm nhận vai trò bảo vệ an ninh và viện trợ kinh tế chính cho Campuchia. Hà Nội đưa hàng trăm ngàn thanh niên xung phong và lưu dân Việt Nam sang Campuchia tháo gỡ mìn và canh tác nông nghiệp. Hàng ngàn trại cải tạo được thiết lập dọc vùng biên giới trong mưu đồ thành lập những khu trái độn, chốt biên phòng.
Qua cuộc tiến công này, chính quyền cộng sản Việt Nam đã trả một giá quá đắt so với những gì thu đạt được : hơn 50.000 thanh niên Việt Nam đã bỏ mình trên đất Campuchia, gần 200.000 người khác bị thương tật suốt đời. Thêm vào đó, Việt Nam còn phải cưu mang hơn 4 triệu dân Khmer, đa số dân chúng Khmer không những không biết ơn mà còn tỏ ra thù nghịch. Những nhóm Khmer võ trang cánh hữu cũng như cách tả tố cáo Việt Nam thôn tính đất nước của họ và tổ chức đánh phá chính quyền Khmer thân Việt Nam.
Sự có mặt quá lâu của bộ đội cộng sản Việt Nam đã bị thế giới lên án. Đầu năm 1979 Hoa Kỳ ra lệnh cấm vận chính quyền cộng sản Việt Nam vô thời hạn. Việt Nam bị cô lập trên chính trường quốc tế. Trung Quốc, ASEAN và các quốc gia phương Tây yêu cầu Việt Nam rút quân về nước. Chính quyền Khmer đỏ tuy bị mang tiếng là diệt chủng vẫn được duy trì ghế đại diện tại Liên Hiệp Quốc.
Về mặt kinh tế, Campuchia không có tài nguyên gì đáng kể để trao đổi cấp nhà nước. Ngoại thương Việt Nam bất lực trong việc cung ứng hàng hóa tiêu dùng cho dân chúng Khmer. Thương nghiệp quốc doanh Việt Nam chỉ đảm trách các khâu cung ứng vật liệu chiến lược (gạo, xăng dầu, vật liệu xây cất) cho chính quyền Phnom Penh. Phần còn lại do thương lái và dân buôn lậu mặc tình thao túng. Thương nhân Việt Nam có tham gia vào việc giao dịch với thị trường Campuchia nhưng chỉ đảm trách những vai trò phụ, cật lực tiếp tay với những tay đầu nậu Chợ Lớn trong việc vận chuyển hàng hóa qua lại biên giới.
Sau 1979, vùng biên giới phía Bắc là nơi tranh chấp quân sự thường xuyên. Bộ đội Trung Quốc tùy theo mức độ áp lực của bộ đội cộng sản Việt Nam trên chiến trường Campuchia mà tổ chức những cuộc đánh phá qua biên giới. Tháng 4/1984, Trung Quốc mở đợt bắn pháo và lấn chiếm mới dọc theo biên giới tại các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn khi bộ đội Việt Nam hành quân tiểu trừ quân Khmer đỏ dọc biên giới Thái Lan.
Bên cạnh áp lực quân sự đó, hoạt động buôn lậu tại vùng biên giới Việt-Trung phát triển mạnh mẽ. Ban đầu là những vụ chuyển hàng lậu qua các triền núi, xa các chốt kiểm soát biên phòng. Mỗi ngày hàng ngàn người gồng gánh hàng hóa (gọi là “cửu vạn”) qua lại biên giới. Về sau việc buôn lậu được công khai hóa, hàng đoàn xe vận tải chuyển hàng qua lại biên giới với sự tiếp tay của các lực lượng biên phòng hai nước. Dân buôn lậu miền Bắc cũng tổ chức nhiều đường dây qui mô để chuyển hàng Trung Quốc vào miền Nam.
Sự thù địch được che giấu qua những vật phẩm trao đổi. Dân buôn lậu Việt Nam trả bằng chỉ tệ mạnh : vàng hay đô-la (USD), dân buôn lậu Trung Quốc thanh toán bằng đồng Yuan (CNY, nhân dân tệ không có trị giá trao đổi quốc tế) hay bằng sản phẩm (hàng đổi hàng). Tư thương Trung Quốc mua sản phẩm công nghệ cao cấp lậu thuế (xe hơi, xe gắn máy, vật dụng điện tử), các loại kim khí hiếm (đồng, chí kẽm, nhôm), thực phẩm (gạo, muối, cám heo, các loại đậu), thú vật chăn nuôi (trâu, bò, heo, chó, mèo, gà, vịt) và sản phẩm núi rừng (nấm, kỳ nhông, rắn, rùa, cua, quế chi, sừng nai, gỗ quí). Tư thương Việt Nam mua lại các sản phẩm tiêu dùng hạ phẩm (xe đạp, phụ tùng xe đạp, quạt máy, chén bát, gạch men, kiếng xây dựng, vải vóc, bia rượu, giấy), hóa chất (muối diêm, hàn the, SO2, NO2, Cl…), thực phẩm khô (mì gói, trà, thuốc bắc…). Một số công ty xí nghiệp của Trung Quốc mua lại vật liệu thô nguyên chất để chế biến rồi bán lại cho dân buôn lậu.
Dân buôn lậu Trung Quốc thích mua những sản phẩm mà sau khi bán người Việt phải mất vài năm, có khi hàng chục năm mới gầy dựng lại như dây điện đồng, dây điện thoại, nòng đại bác, xích xe tăng, móng trâu, rơm thân lúa non, đọt dây khoai lang, heo sữa, rể cây quế… Sự kiện này khiến đàn heo, bò, trâu, rừng quế chi, gỗ quí của Việt Nam biến mất quanh các khu vực biên giới. Nhiều xí nghiệp công nghệ của Trung Quốc tại Quảng Tây và Vân Nam cũng tham gia vào đường dây buôn lậu để tuôn vào Việt Nam những mặt hàng kém phẩm chất còn ứ đọng không tiêu thụ được trong nước.
Nhà cửa bị tàn phá sau chiến tranh tại Cao Bằng, Lạng Sơn đã được những tay buôn lậu giàu có xây dựng lại và có cơ nguy nga hơn trước và được dùng làm nơi trung chuyển hàng lậu. Lạng Sơn và thị trấn Đồng Đăng gần cửa khẩu Hữu Nghị là nơi có hoạt động buôn lậu tấp nập hơn cả. Băng Tường (Quảng Tây) là địa điểm mua bán hàng lậu thuế lớn nhất trên đất Trung Quốc. Sinh hoạt buôn lậu tại Quảng Ninh và Bắc Giang khởi sắc không kém.
Trong những ngày đầu áp dụng chính sách cải tạo công thương nghiệp miền Nam, Bắc Kinh đã lớn tiếng phản đối và “nhân danh Tổ Quốc (Trung Quốc) đứng ra bảo vệ quyền lợi của Hoa kiều”. Năm 1976, Trung Quốc yêu cầu được lấy tòa đại sứ Trung Hoa Dân Quốc cũ để thành lập tòa tổng lãnh sự tại Sài Gòn. Bắc Kinh viện cớ là để tiện việc liên lạc với cộng đồng người Hoa tại đây, lời yêu cầu này không được Hà Nội thỏa mãn.
Tháng 9/1977, Đặng Tiểu Bình tổ chức tại Bắc Kinh một cuộc gặp gỡ những đại biểu Hoa kiều đến từ khắp nơi trên thế giới, kêu gọi thắt chặt mối liên hệ thân tộc với quê hương cũ. Tháng 5/1978, Bắc Kinh tuyên bố “dành cho Hoa kiều vai trò mở đường cho Trung Quốc đặt quan hệ với các nước Đông Nam Á”. Ý muốn nói cư dân Hoa kiều Đông Nam Á là công dân của Trung Quốc, có quyền thay mặt Trung Quốc giao thương với các lân bang.
Khi quan hệ Việt-Trung đến hồi căng thẳng, giữa năm 1978, Bắc Kinh công khai kích động người Hoa miền Bắc Việt Nam đòi phục hồi quốc tịch Trung Quốc để trở về “Tổ Quốc” (xem Phụ lục 3 và 5). Chính quyền cộng sản Việt Nam tố cáo sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội trực tiếp chỉ thị sự hồi hương của người Hoa, theo đó sứ quán Trung Quốc cho lưu truyền một lời kêu gọi người Hoa về nước. Lời kêu gọi này được các nhân viên sứ quán phổ biến tận tay những chức sắc lãnh đạo cộng đồng người Hoa tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng và Hà Nội. Không bao lâu sau, đài phát thanh Bắc Kinh công khai cho phát thanh liên tiếp lời kêu gọi người Hoa tại Việt Nam trở về nước. Như đã nói ở phần trên, người Hoa tại miền Bắc vẫn duy trì những quan hệ tình cảm mật thiết với Trung Quốc, họ tích cực hưởng ứng lời kêu gọi.
Tại miền Nam, cộng đồng người Hoa cũng có phần giao động, nhất là sau những vụ tảo thanh, bắt bớ tư sản trong hai năm 1978-1979. Nhiều người từ lâu đã nghĩ đến chuyện rời khỏi Việt Nam nhưng chưa biết bằng cách nào, lời kêu gọi của sứ quán Trung Quốc là một chỉ dẫn hành động. Đối với họ, Việt Nam và Trung Quốc đều là hai quốc gia cộng sản, người Hoa sống dưới chế độ của người Hoa có lẽ sẽ dễ chịu hơn sống dưới chế độ cộng sản của người Việt. Thêm vào đó có tin đồn họ sẽ được cho đi định cư tại một quốc gia đệ tam nếu không muốn ở lại Trung Quốc.
Với những lý luận như trên, từng đoàn người Hoa sử dụng mọi phương tiện vận chuyển đi từ đồng bằng sông Cửu Long, Chợ Lớn ra miền Bắc, rồi từ miền Bắc đến vùng biên giới vượt biên sang Trung Quốc. Đoàn người càng đông khi Trung Quốc tuyên bố sẽ đóng cửa biên giới trước cuối năm 1978. Hàng chục ngàn người chậm chân, lỡ bước phải quay về làng xã, nhà cũ (đã bị tịch thu), họ chỉ còn cách vượt biên bằng đường biển nếu còn đủ tiền, những người kém may mắn hơn buộc phải ở lại chờ một cơ hội khác.
Giá vé xe lửa Sài Gòn-Hà Nội, Hà Nội-Hữu Nghị, Hải Phòng-Móng Cái trong thời gian này đột ngột tăng cao, hành khách phải giành giật và trả bằng vàng giá một chỗ ngồi. Thuyền bè đánh cá tại Vịnh Bắc Phần trở nên khan hiếm và cao giá, nhiều thân tàu cũ được tân trang trở lại để chở người vượt biên sang Trung Quốc và Hồng Kông. Thực phẩm khô và hàng hóa tiêu dùng trở nên khan hiếm vì người Hoa truy mua ráo riết để tiêu hết tiền Việt Nam còn lưu giữ và để chuẩn bị hành trang cho một chuyến đi xa.
Nhiều gia đình người Hoa cố gắng thu vén toàn bộ tài sản chắt chiu từ nhiều đời để trở về Trung Quốc, và cũng có nhiều gia đình ra đi trắng tay. Một số khác không muốn về cũng phải về vì áp lực của đồng hương. Đảng viên cộng sản và viên chức cao cấp gốc Hoa trong các ngành hành chánh sự nghiệp và kỹ thuật bị đồng loạt tước hết quyền hành. Một số công nhân kỹ thuật bị ép buộc chuyển giao hay truyền bá lại các hiểu biết kỹ thuật chuyên môn cho công nhân Việt. Người gốc Hoa bị làm khó dễ trong các thủ tục hành chánh (bán nhà, di chuyển) và sinh hoạt (công ăn việc làm, buôn bán, học hành).
Cho đến tháng 7/1979 có trên 250.000 người, hoặc bị trục xuất hoặc tự động ra đi vì sợ chính quyền cộng sản Việt Nam trả thù, đã đến Trung Quốc bằng đường bộ. Hàng trăm ngàn người khác đi bằng tàu thuyền đổ bộ lên bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nàm. Trung Quốc nới rộng tay đón tiếp những “nạn kiều” này và bố trí nhiều trại tị nạn dọc biên giới và các vùng ven biển để tiếp cư. Một số đông người Hoa và người Việt sống tại Hải Phòng và Hà Nội nhân cơ hội cũng gia nhập đoàn người này ra đi, khi đến bờ biển Trung Quốc họ được cấp xăng dầu hay sửa chữa thuyền bè để tiếp tục đi tiếp sang Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản.
Chính quyền cộng sản Việt Nam cũng nhân cơ hội tổ chức nhiều vụ vượt biên bán chính thức để lấy vàng và tịch thu nhà cửa, cơ sở làm ăn của họ. Lệnh này chỉ phổ biến trong cộng đồng người Hoa, không áp dụng cho người Việt. Nhiều khu tập trung người Hoa được thành lập dọc các thành phố ven duyên và các bến tàu. Nhiều gia đình người Việt từ lâu muốn vượt biên nhưng chưa có cách đã tìm cách mua giấy tờ hộ tịch Trung Hoa để nộp đơn ra đi. Phong trào làm giấy tờ giả, hôn nhân giả với người Hoa lan tràn trong các thành phố lớn miền Nam. Nhiều viên chức chính quyền biết được việc này đã làm khó dễ cả người Hoa lẫn người Việt để nhận hối lộ.
Ở miền Nam, chính quyền các tỉnh và thành phố Sài Gòn, Vũng Tàu-Côn Đảo, Bến Tre, Long An, Cửu Long, Tiền Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, Minh Hải, Long Xuyên, Phú Khánh, Quảng Nam và Thừa Thiên tổ chức vượt biên bán chính thức để lấy tiền. Giá chính thức do nhà nước qui định cho mỗi đầu người từ 3 đến 5 lượng, trong thực tế giá mỗi đầu người phải từ 8 đến 12 lượng vàng y (loại 24K), mỗi chiếc tàu chở từ 300 đến 500 người.
Trong giai đoạn này, nhiều gia đình gốc Hoa cho đặt nhiều loại vàng giả, vàng kém phẩm chất (loại hai da : ruột trong bằng bạc mặt ngoài bằng vàng y) để nộp cho các viên chức chính quyền. Cũng có nhiều trường hợp viên chức nhà nước sau khi nhận vàng thật đã mang ra thị trường chợ đen đổi lấy vàng giả nói trên rồi nộp lại vào kho nhà nước, ở giữa hưởng chênh lệch. Người ta phát hiện nhiều loại vàng giả và ngoại tệ giả được lưu hành tại Việt Nam, nhất là tại các cửa khẩu buôn lậu dọc các tỉnh biên giới.
Vì được chuẩn bị trong một thời gian cấp bách, những tàu bè chở người vượt biên bán chính thức không được trang bị những thiết bị cần thiết để ra khơi. Nhiều tàu phải quay về đất liền để xuống bớt hành khách, nạn nhân là những người Việt không còn đủ tiền hối lộ công an biên phòng để được đi tiếp. Một số tàu khi quay về không đúng địa điểm xuất phát bị công an biên phòng địa phương khác làm tiền và bắt giam. Nhiều người Hoa phải trở về nơi sinh quán cũ trắng tay, cố gắng tìm một cơ hội khác để đào thoát.
Người ta không rõ số người đã ra đi thực sự ra đi từ miền Nam trong giai đoạn này là bao nhiêu vì ngoài danh sách chính thức có rất nhiều người đi không khai báo mặc dù vẫn đóng đủ tiền cho công an biên phòng, nhưng con số chắc chắn phải trên 300.000. Nhiều người đã đến được Philippines, Malaysia, Thái Lan và Singapore, những người khác được các tàu quốc tế vớt, và cũng có rất nhiều người đã bỏ mình trên biển cả. Hàng trăm tàu thuyền chở khách hay đánh cá lớn được tân trang để chở người vượt biên bán chính thức một cách hợp pháp. Nhưng cũng có hàng trăm tàu thuyền khác nhỏ hơn do các lực lượng công an biên phòng dịa phương tổ chức ngoài sự kiểm soát của trung ương để lấy vàng bỏ túi riêng. Sự chuẩn bị rất vội vàng, số thuyền bè đã chìm ngoài khơi không rõ là bao nhiêu nhưng chắc chắn rất nhiều.
Sau những biến động vừa kể trên, Trung Quốc tố cáo “Việt Nam đàn áp, xua đuổi người Hoa”, gọi những người này là “nạn kiều”. Mục đích của chiến dịch này nhằm hạ uy tín Việt Nam trên chính trường quốc tế, chuẩn bị dư luận thế giới trước khi “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Những luận điệu tuyên truyền, những danh từ thù hận của chính quyền cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc trút lên đầu những người Hoa trốn chạy này. Ngoài vạ tiếng là “đội quân thứ 5”, người Hoa sinh sống tại Việt Nam còn bị kết thêm một tội danh nữa là “đội quân ngầm” của Bắc Kinh. Hành vi bài Hoa của chính quyền cộng sản được phát động khắp nơi trên lãnh thổ miền Bắc khiến những ai là người Hoa hoặc có quan hệ gia đình với người Hoa (vợ chồng, con cái, cha mẹ) không thể ở lại được. Thêm vào đó những biến động giá cả trên thị trường đều đổ cho những người Hoa ra đi gây ra. Toàn bộ hoạt động kinh tế, quốc doanh và chợ đen đều ngừng trệ, đời sống trở nên khó thở.
Theo số liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc trong 5 năm, tổng số thuyền nhân Việt Nam đã đến các trai tị nạn ASEAN từ 30/04/1975 (ngày chế độ miền Nam bị sụp đổ) đến 30/04/1980 là 331.725 người.
Một cách tổng quát, người ta ghi nhận như sau : 30% là người Kinh (trên 100.000 người trong đó 5% đi từ miền Bắc, 25% đi từ miền Nam), 70% còn lại là người gốc Hoa (khoảng 230.000 người trong đó 40% gốc Hoa miền Bắc, 30% gốc Hoa miền Nam). Trong tổng số người Hoa tị nạn đó, 45% ra đi từ miền Bắc và 55% từ miền Nam. Đây là số người tị nạn trực thuộc quyền quản lý của Liên Hiệp Quốc, con số thực tế có thể cao hơn rất nhiều vì có rất nhiều trại tị nạn được dựng lên một cách tạm thời để đón nhận thuyền nhân trên các hải đảo xa xôi tại Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan.
Số người tị nạn thật sự đi từ Việt Nam trong thời gian đó, có thể lên đến 580.000 người vì trong năm 1979 có trên 250.000 người gốc Hoa đã dùng đường bộ ra khỏi nước trước và sau khi quân đội Trung Quốc tấn công các tỉnh biên giới. Con số này hiện nay đã gia tăng vì trong suốt thời gian từ 1980 đến 1990, dân số nạn kiều đã gia tăng do sinh sản thêm tại chỗ, hiện nay phải tính là 280.000 người. Ngoài ra phải cộng thêm trên 160.000 người đã được Hoa Kỳ đưa đi trong tháng 4-1975. Như vậy trong vòng 5 năm có hơn 740.000 người đi từ Việt Nam, trong đó chỉ có khoảng 200.000 người Việt. Cũng phải tính thêm trong thời gian này có gần 150.000 người được ghi nhận mất tích trên biển cả (theo ước tính của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc) nâng tổng số người ra đi khỏi Việt Nam lên trên 900.000 người, trong đó chỉ 25% là người Việt, số còn lại (75%) là người gốc Hoa.
Nhóm người Hoa vượt biển được biết đến nhiều nhất trong năm 1978 là trên các tàu Huey Fong, Skyluck (đến Hồng Kông), Hải Hồng (đến Malaysia) và Tung An (đến Philippines), mỗi tàu chở theo hàng ngàn người. Ngoài ra còn vô số thuyền bè lớn nhỏ khác chở người đến các trại tị nạn Đông Nam Á. Một số quốc gia, không chấp nhận qui chế tị nạn của những người này, đã xua kéo tàu của họ ra khơi làm nhiều người bị chết do chìm tàu hay do hải tặc giết ngoài Biển Đông.
Nếu tìm được con số thống kê chính xác số người bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp hay chết trên biển cả trong thời gian này, con số đó chắc chắn sẽ rất cao, cao hơn ước tính của Liên Hiệp Quốc vì có nhiều tàu bị chìm hay mất tích luôn với tất cả hành khách không còn nhân chứng để kể lại. Phần lớn nạn nhân là người gốc Hoa. Nạn hải tặc thịnh hành nhất trong hai năm 1978-1980, vì trong giai đoạn này người Hoa di tản mang theo rất nhiều vàng bạc và của cải, chính những người Hoa đến trước tố cáo người Hoa đến sau về sự giàu có của người vượt biển qua cách tiêu xài rộng rãi của họ trong các trại tị nạn. Nguồn tin về sự giàu có này đã hấp dẫn các đám hải tặc Vịnh Thái Lan, thay vì đi đánh cá họ chỉ dành thì giờ đi tìm tàu vượt biên Việt Nam trấn lột.
Trong hai năm 1978-1979, có trên 320.000 người ra đi từ Việt Nam được tạm cư trong khắp các trại tị nạn ASEAN. Riêng trại Poulo Bidong (Malaysia) lúc cao điểm đã chứa trên 100.000 người/ngày. Những năm sau đó, nhiều thuyền nhân khác đã đến được các trại tị nạn Đông Nam Á, đa số là người gốc Hoa vì chỉ có họ là thành phần còn có khả năng trả tiền, tính bằng vàng y, cho thân nhân vượt biên bằng tàu thuyền. Những gia đình gốc Hoa giàu có mới đa số đều bỏ của chạy lấy thân bằng con đường vượt biển.
Cũng phải kể đến một số người vượt biên sau 1980 đi bằng hai cách : hoặc bằng tàu, hoặc bằng đường bộ qua ngõ Lào và Campuchia. Tổng số người đi trong khoảng thời gian 1980-1985 có trên 300.000, trong đó hơn 180.000 đến được các trại tị nạn ASEAN bằng đường biển và gần 120.000 đến bằng đường bộ trên khắp các trại tị nạn dọc biên giới Campuchia-Thái Lan. Những người đi bằng đường bộ đa số là những người sợ bị hải tặc hoặc những gia đình nghèo sống ở Sài Gòn, tại đồng bằng sông Cửu Long hay trên Tây Nguyên. Trong số những người này, hơn 40.000 là người gốc Hoa, gần như toàn bộ đã được định cư sang các quốc gia khác do thân nhân bảo lãnh, số người còn kẹt lại ngày nay là người Kinh, người thuộc các sắc tộc khác không có thân nhân bảo lãnh.
Tại miền Bắc, số người vượt biên bằng đường biển vẫn gia tăng, nhưng ít hơn tại miền Nam. Trong những năm 1979-1980, có khoảng 25.000 người đã đến trực tiếp các trại tị nạn tại Hồng Kông bằng tàu thuyền, trong số đó hơn 40% là người gốc Hoa. Những năm kế tiếp, nhiều tàu thuyền khác của người Việt và người Hoa từ miền Trung đã cập bến Hồng Kông. Một số tàu buồm đi từ Vịnh Bắc Phần cũng đã đến Hồng Kông, đại đa số thuyền nhân cho đến nay vẫn còn bị kẹt trong những trại cấm chờ ngày hồi hương tự nguyện hay cưỡng bách.
Tại miền Bắc, ngoài những thiệt hại vật chất tại các tỉnh biên giới, hoạt động sản xuất trong các hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp chế biến nguyên liệu gần như bị tê liệt. Chuyên viên lành nghề trong các lãnh vực trên đa số là người gốc Hoa. Năm 1978, Trung Quốc đình chỉ 70 dự án tái thiết kỹ nghệ và ngưng giao 300.000 tấn dầu thô cho Việt Nam, những giao thương cấp nhà nước đều bị đình chỉ.
Những hành động thù địch giữa hai nước mà nạn nhân trực tiếp là người Hoa sinh sống tại Việt Nam càng làm trầm trọng thêm vấn đề hội nhập người Hoa tại Việt Nam. Dân chúng gốc Hoa tìm cách tự mưu sinh, bất chấp các hành vi thù nghịch của chính quyền. Sự trao đổi hàng hóa dọc các tỉnh biên giới Việt-Trung giữa con buôn của hai nước ngày càng phát triển mạnh. Sự trao đổi hàng hóa xa xỉ dọc các vùng biên giới chủ yếu là bằng vàng và ngoại tệ mạnh. Hà Nội tố cáo “Bắc Kinh tổ chức 25 điểm buôn bán hàng lậu tại biên giới để phá hoại kinh tế miền Bắc, sử dụng tư sản Hoa ở Thái Lan để bao vây kinh tế Lào, dùng tư sản người Hoa ở Campuchia làm trạm trung chuyển để tuồn các hàng hóa xa xỉ phẩm vào Việt Nam”.
[Cũng nên biết thêm là thương nhân Trung Quốc mua nhiều loại hàng rất cao giá như gỗ quí, dây điện đồng, rễ cây quế, cám, móng chân trâu bò, nồng đại bác v.v…, những trao đổi này làm gia tăng nạn ăn cắp dây điện đồng, phá hoại rừng quế, giảm sụt đàn gia súc, khan hiếm cám. Các loại vũ khí hạng nặng không còn sử dụng được Trung Quốc mua theo giá kim loại phế thải].
Tại miền Nam, sự ra đi ồ ạt của người gốc Hoa gây nhiều giao động trong đời sống kinh tế : người ta lo đầu cơ tích trữ vì sợ chiến tranh kéo dài, giá cả tăng cao, hàng hóa khan hiếm. Nhiều gia đình vội vã gom góp tiền của cho con em vượt biên, không muốn “làm nghĩa vụ quốc tế xã hội chủ nghĩa” trên chiến trường Campuchia. Vàng bạc, quí kim và ngoại tệ được truy mua ráo riết, giá cả tại các chợ tăng lên mỗi giờ, mặc dầu đã bị các lực lượng Kinh Tế 3 và Quản Lý Thị Trường kiểm soát gắt gao, nhất là tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Nhiều gia đình gốc Hoa và Việt Nam “giàu có mới” liên tiếp bị kiểm kê, các chợ trời liên tục bị tảo thanh, hàng chục ngàn người đã bị bắt.
Những gia đình gốc Hoa, hành nghề buôn bán nhỏ trước kia, đứng ra thay thế những đồng hương ra đi đã trở nên giàu có. Họ chiếm được cảm tình của dân chúng lẫn cán bộ đảng viên. Rút kinh nghiệm những gì đã xảy ra, họ chỉ tham gia đầu tư nhỏ, ngắn hạn và kín đáo. Họ đầu tư chủ yếu vào dịch vụ ăn uống, buôn bán hàng ngoại nhập. Những doanh nhân mới loại này rất đông và lối làm ăn của họ thiên hình vạn trạng. Để được yên ổn làm ăn, họ không ngần ngại bỏ tiền ra mua chuộc những cán bộ công an khu vực, công an kinh tế và đôi khi còn ăn chia với nhau trong những dịch vụ làm ăn phi pháp lớn. Có nơi cán bộ nhà nước còn cố vấn cho họ những lãnh vực nào nên làm lãnh vực nào nên thôi để tránh nạn.
Một lối làm ăn mới xuất hiện trong những 1979-1985, giới buôn lậu trong nước liên lạc được với Hoa kiều Đông Nam Á mang hàng đến hải phận quốc tế chờ những tàu nhỏ từ Việt Nam ra bốc hàng chở vào đất liền bán. Nhiều thương lái mua bán ngay tại biên giới Campuchia-Thái Lan hay Campuchia-Việt Nam (Hà Tiên, Châu Đốc…), sau đó dùng đường bộ chở lén lút về Sài Gòn và các thành phố lớn khác. Bộ đội cộng sản đồn trú tại Campuchia tỏ ra rất tích cực trong công tác chuyển vận này.
Hiện tượng chảy máu vàng khiến trữ lượng chỉ tệ mạnh trong nước khan hiếm. Vàng và đô-la (USD) của Việt Nam đổi lấy sản phẩm tiêu thụ xa xỉ như xe gắn máy, xe hơi, thuốc lá, xà-bông, vải, giầy dép, áo quần may sẵn, radio-cassette, máy móc điện tử, băng nhạc, pin, đồng hồ, đồ hộp và thực phẩm khô. Người ta ước lượng khoảng 300.000 USD được trao đổi qua lại tại các chợ buôn lậu dọc biên giới mỗi ngày. Người tiêu thụ dĩ nhiên là người Việt, người xuất vốn phần lớn vẫn là những thương buôn gốc Hoa, con buôn trung gian là những cán bộ công an biên phòng và con buôn sỉ và lẻ là người Việt. Những thương buôn này sau khi bán được hàng hóa, lấy tiền Việt Nam mua lại vàng và đô-la trên thị trường chợ đen cất giữ, sau đó lại mang ra trao đổi với các thương lái tại vùng biên giới hay với các đội thương thuyền ngoài khơi hải phận Việt Nam.
Vàng và đô-la của Việt kiều gởi về giúp đỡ gia đình cũng lần lượt được mang ra các thị trường chợ đen tiêu hóa. Nhiều đường dây tổ chức đưa người vượt biên được thành lập để đưa một số gia đình Việt Nam và gốc Hoa trong nước, được thân nhân hải ngoại tiếp tế hay sau khi đã thành công một vài vụ làm ăn lớn, sang các quốc gia ASEAN để được tị nạn tại những quốc gia đệ tam.
Đất nước dưới chế độ cộng sản, sau khi thành phần tư thương tư bản bị đánh dẹp, trở thành nghèo nàn và sơ xác. Khi giới lãnh đạo cộng sản ý thức được điều này tất cả đều đã muộn màng. Ưu tư chính của mọi người là được sống sót trong một xã hội mạnh được yếu thua. Những khái niệm cao đẹp như lòng yêu nước, đạo đức, đùm bọc, tự hào, tương thân tương ái v.v… hoàn toàn vắng mặt trong lòng mọi người, người ta chỉ nghĩ đến việc kiếm tiền và hưởng thụ. Cán bộ, viên chức nhà nước cũng bằng mọi cách lợi dụng địa vị móc ngoặc, tham nhũng, ăn cắp của công để có thật nhiều tiền và để đua đòi hưởng thụ với những thành phần giàu có mới .
Năm 1983 chính quyền cộng sản chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần : quốc doanh, hợp tác xã và tư nhân. Khẩu hiệu “ba lợi ích” (lợi cho nhà nước, lợi cho xí nghiệp, lợi cho bản thân) được các báo, đài truyền hình và truyền thanh loan đi rộng rải, chế độ kêu gọi tư nhân thành lập xí nghiệp. Khái niệm lợi nhuận được tôn vinh. Nhưng không còn ai tin tưởng vào chế độ nữa, người ta chỉ đầu tư vào các ngành ăn chơi phù phiếm. Nhiều người trở nên giàu có nhờ biết thỏa mãn nhu cầu ăn chơi của thành phần giàu có mới. Người Hoa thành phố xuất hiện lẫn lộn trong đám hỏa mù này. Xã hội trở nên sa đọa, thành phần tệ đoan xuất hiện công khai trên các đường phố, bất chấp cán bộ công quyền, hành đủ các nghề để sống.
Thấy nguy cơ của sự bế tắc, Đại Hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam hô hào đổi mới : đổi mới tư duy, đổi mới phong cách sinh hoạt. Nhà nước kêu gọi đầu tư quốc tế, đặc biệt là kêu gọi sự đầu tư của Hoa kiều Đông Nam Á. Doanh nhân phương Tây bị giới hạn bởi lệnh cấm vận của Hoa Kỳ ban hành năm 1979 không mấy hưởng ứng.
Đối với các nhà tư bản Hoa kiều, Việt Nam dầu sao vẫn là thị trường còn trinh nguyên đối với đầu tư ngoại quốc. Doanh nhân phương Tây rất muốn xâm nhập thị trường Việt Nam nhưng còn e ngại những rủi ro có thể xảy ra cho số tiền đầu tư của họ, do đó họ quan sát rất kỹ hoạt động của doanh nhân Hoa kiều và người gốc Hoa đến Việt Nam đầu tư. Cộng đồng người Hoa tại chỗ là đầu cầu lý tưởng cho thử nghiệm này.
Hoa kiều tại Đông Nam Á đi đầu trong lãnh vực thăm dò thị trường Việt Nam. Những Hoa kiều này đến Việt Nam với tư cách cá nhân, các quốc gia đông người Hoa cư ngụ chưa tỏ ý muốn tham gia đầu tư vào Việt Nam vì chưa có một bộ luật về đầu tư rõ ràng. Thương nhân Hoa kiều về nước từng đoàn, tiếp xúc với đủ các cấp lãnh đạo chính quyền, trao đổi, đề nghị phương án hợp tác, bàn thảo những qui ước về đầu tư.
Hoạt động kinh doanh có tầm vóc của người Hoa trong nước lúc ban đầu, được sự hỗ trợ vốn và kỹ thuật của Hoa kiều Đông Nam Á, là những đầu tư vào các lãnh vực giải trí, dịch vụ chế biến (xay gạo, thực phẩm khô) chứ không tập trung vào các ngành sản xuất công nghiệp nặng như dệt, đúc cán sắt hay cơ khí… Ai cũng e ngại sự lật lọng của chính quyền cộng sản, do đó trong lúc này những người muốn đầu tư chỉ đầu tư vào những ngành nghề nào dù có bị mất vốn thì chỉ mất ít nhưng tỷ lệ, tốc độ thu lời và khả năng hoàn vốn nhanh.
Một số doanh nhân Việt Nam hải ngoại chờ xem doanh nhân Việt gốc Hoa về nước làm ăn như thế nào, nếu không bị làm khó dễ họ sẽ về theo. Nhưng khi về nước, doanh nhân Việt Nam gặp nhiều trắc trở hơn người Hoa vì bị chính quyền cộng sản nghi kỵ, kể cả những người trước kia đã từng ủng hộ Hà Nội trong cuộc chiến vừa qua. Một cách gián tiếp, người Hoa vẫn làm chủ các sinh hoạt đầu tư và chiếm được cảm tình của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Sau 1986 người gốc Hoa, sau khi vượt biên và định cư tại một số quốc gia phương Tây, tìm cách liên lạc và giúp thân nhân còn ở lại trong nước. Người Việt gốc Hoa hải ngoại có nhiều cách để chuyển tiền về nước. Ban đầu là gởi tiền qua các hệ thống chính thức của chính quyền để giúp đỡ gia đình, khi về lại Việt Nam họ thành lập nhiều đường dây chuyển tiền riêng giữa họ với nhau. Sự thành công của lối làm ăn này là chữ Tín, dù có bị trắc trở gì đi nữa thân nhân người gởi và người nhận vẫn được hoàn trả hay giao lại xứng đáng. Mục đích của những dịch vụ này trước hết để giúp thân nhân gây dựng trở lại cơ sở, sau là thử nghiệm tính khả lợi của thị trường Việt Nam : sức mua của dân chúng miền Nam và sự hủ hóa của các cán bộ cộng sản.
Tiếng đồn về chữ Tín này lan sang những gia đình Việt kiều còn thân nhân trong nước, người ta đã ồ ạt giao tiền qua những đường dây chuyển tiền lậu từ các quốc gia phương Tây về nước qua các trục Hồng Kông, Thái Lan và Singapore. Tổng số tiền chuyển về Việt Nam mỗi năm tương đương với tổng số hàng hóa xuất khẩu (ngoài dầu lửa) chính thức của nhà nước. Năm 1990 Việt kiều hải ngoại đã chuyển về nước trên 400 triệu USD, năm 1991 chuyển hơn 500 triệu USD (chuyển ngân chính thức qua đường dây của chính quyền khoảng 100 triệu USD một năm). Người Việt gốc Hoa là đối thủ chính của chính quyền cộng sản trong việc chuyển tiền về nước.
Tư nhân Việt Nam cũng thành lập nhiều đường dây chuyển tiền riêng nhưng đa số đều thất bại vì thiếu chữ Tín, không ít người đã bị lường gạt bởi các dịch vụ này. Với số tiền do thân nhân Việt kiều hải ngoại gởi về phần lớn dùng để giải quyết những nhu cầu thứ nhất (ăn mặc), sau đó là những nhu cầu thứ yếu (nhà ở, giải trí và lo cho thân nhân khác vượt biên), số còn lại để kinh doanh (khoảng từ 5 đến 10%). Những đầu tư nếu có chỉ tập trung vào sản xuất nhỏ và mua bán gia đình (quầy thuốc lá, tạp hóa, tiệm ăn…). Thân nhân Việt kiều, những tay buôn chợ trời khá giả, cán bộ tham nhũng trở nên hoang phí, họ ăn xài không tiếc của vì đồng tiền có trong tay không phải đổ nhiều mồ hôi công sức. Phần lớn nguồn lợi tức chợ trời và “Việt kiều” này, cũng như trước kia lợi tức “viện trợ Mỹ”, chạy ngược về tay những người cung cấp dịch vụ giải trí, quan chức chính quyền tham nhũng và thương lái gốc Hoa.
Cộng đồng người Hoa trong nước là nguồn cung cấp hàng hóa và định giá mua bán cho các chợ bán lẻ, chợ trời như chợ Lê Thánh Tôn, Vườn Chuối, Ông Tạ (vàng bạc, ngoại tệ), Nguyễn Tri Phương, khu La Kai, chợ Cũ (rượu, thuốc lá, đồ hộp), Hồng Bàng, Huỳnh Thúc Kháng, Tôn Thất Đạm (máy móc điện tử), Trần Hoàng Quân, Tạ Thu Thâu (áo quần), Soái Kình Lâm (vải vóc), An Đông (vàng bạc, mỹ phẩm), Bình Tây (vải, thịt), Trần Chánh Chiếu (gạo), chợ Cầu Ông Lãnh (thủy sản), Cầu Muối (trái cây), đường Nguyễn Huệ (xe hơi), Nguyễn Trãi (xe gắn máy), các bến xe đò và xe lửa (cà phê, trà, thuốc phiện), các giang cảng (hàng nhập lậu)…
Việt kiều trong những năm 1980-1986 nếu có về nước chủ yếu là thăm gia đình, du lịch và hưởng thụ. Chỉ một số ít còn quan tâm đến việc làm ăn hay đầu tư, nhưng đó không phải là những nhà kinh doanh lớn và cũng không phải là đối thủ của người Hoa (đối với người Hoa đối thủ chính của họ là doanh nhân Nhật Bản, Đại Hàn và phương Tây). Vốn đầu tư của Việt kiều quá nhỏ và quá ít so với khối lượng tư bản của Hoa kiều bỏ vào miền Nam trong cùng thời gian (thật ra trong giai đoạn này vốn đầu tư của doanh nhân Hoa kiều chưa lấy gì làm nhiều : vài chục triệu USD).
Sau hơn 10 năm đất nước được thống nhất, mọi người đều nhận hoạt động thương nghiệp của Việt Nam không thể thiếu vắng doanh nhân gốc Hoa. Nhà nước không thể nắm độc quyền trong việc sản xuất và phân phối hàng hóa. Càng cấm đoán, càng kiểm soát gắt gao nền kinh tế quốc dân càng phát triển theo qui luật tự phát vô tổ chức, vô chính phủ (chợ đen, tham nhũng). Khi được thả lỏng nền kinh tế phát triển theo qui luật tư bản kiểu rừng rú vì thiếu những định chế tài chánh và luật pháp hướng dẫn. Đời sống người dân và cán bộ liêm chính ngày càng xuống cấp, chỉ thành phần cán bộ tham nhũng và Hoa kiều có đời sống sung túc. Đây là bài toán nan giải mà từ nhiều năm qua chính quyền cộng sản chưa tìm ra giải đáp.
Hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa không nhìn nhận chỗ đứng bình thường của thành phần kinh tế tư doanh và cá thể. Hệ thống này đã đẻ ra một số tập đoàn “tư bản đỏ”, những cán bộ cộng sản nắm giữa những cơ quan có sinh lợi cao như ngoại thương, du lịch và tín dụng. Những người này lạm dụng quyền thế hoạt động vì lợi ích riêng tư của phe nhóm hay gia đình hơn là cho nhà nước.
Những điều luật có liên quan đến các hoạt động kinh tế chỉ là những pháp lệnh, nghị quyết giai đoạn, địa phương nào ban hành được, nội dung được giải thích tùy theo mặt khách hàng. Vì mang tính tùy tiện, “duy ý chí”, thương nhân nào chịu mua chuộc, hối lộ, đút lót cao thì được nhiều dễ dàng, những ai dự định làm ăn theo đúng “luật pháp” thường bị bỏ rơi, đôi khi còn bị phạt vạ vì “vi phạm luật”. Trong lãnh vực tiêu cực này, doanh nhân Hoa kiều tỏ ra hơn hẳn doanh nhân phương Tây và Việt Nam, họ sẵn sàng bỏ ra nhiều món tiền lớn để mua chuộc viên chức nhà nước miễn sao được việc.
Luật Đầu Tư được ban hành (1987), các quốc gia ASEAN và Đông Á cử nhiều phái đoàn chính thức vào Việt Nam điều nghiên. Các chuyến bay từ các quốc gia Đông Nam Á đến Việt Nam, đặc biệt là đến Sài Gòn gia tăng, 80% hàng khách là người Hoa. Nhiều cuộc hội thảo quốc tế đã được tổ chức tại Sài Gòn và Hà Nội, doanh nhân Hoa kiều là khách mời danh dự. Nhà nước cộng sản cam đoan không quốc hữu hóa các xí nghiệp ngoại quốc và để lấy lòng Hoa kiều, vì chỉ có họ mới dám đến Việt Nam đầu tư. Từ tháng 7/1991, nhiều cơ sở sản xuất và thương mại, nhà cửa tịch thu trước đây của người Hoa tại Sài Gòn – Chợ Lớn và các thành phố lớn miền Nam được trả lại cho chủ cũ. Trong khi đó đại bộ phận dân chúng gốc Hoa tại đồng bằng sông Cửu Long vẫn sống an phận trong sự nghèo khó, 60% là ngư dân và nông dân.
Theo một tài liệu đăng trên báo Đoàn Kết (một tờ báo thân Hà Nội), số tháng 3/1991 (trích đăng tin của hãng AFP ngày 14/3/1991), cho biết “Chợ Lớn đã tạo lập lại phần vốn liếng ngày xưa với khả năng tài chánh được ước tính tối thiểu là 500 triệu đô-la” và “ở Chợ Lớn có hơn ba mươi gia đình triệu phú đô-la”. Số vốn liếng đó không hướng vào đầu tư công nghiệp lâu dài mà tập trung vào hoạt động thương nghiệp “vì người Hoa không tin tưởng vào chế độ cộng sản hiện nay”. Nhiều doanh nhân gốc Hoa còn làm cố vấn kinh tế cho các chính quyền địa phương, nhất là tại các tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long, lập các kế hoạch xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường y như dưới thời Pháp thuộc. Theo tài liệu báo chí trong nước, trong số mười doanh gia nổi tiếng nhất nước có hai người gốc Hoa : ông Tăng Minh Phụng, chủ nhân công ty may mặc xuất khẩu Minh Phụng có hơn 5.000 công nhân với số doanh vụ trung bình khoảng 40 triệu USD/năm ; ông Vưu Khải Thành, chủ nhân hãng giầy dép xuất khẩu Bình Tiên (Biti’s) có hơn 2.000 công nhân với tổng tích sản trị giá trên 6 triệu USD.
Từ sau 1989, các hợp đồng đầu tư lớn được ký kết, đa số là với doanh nhân Hoa kiều Đài Loan, Singapore, Hồng Kông và Thái Lan. Năm 1991, Đài Loan chiếm vị trí hàng đầu về vốn đầu tư (500 triệu USD). Chính quyền cộng sản dự định thành lập nhiều khu chế xuất (export zone) tại một số khu vực quanh các thương cảng Sài Gòn, Vũng Tàu, Biên Hòa, Cần Thơ, Đà Nẵng, những khu này chỉ dành riêng cho doanh nhân ngoại quốc, đặc biệt là Hoa kiều. Chính quyền công sản Việt Nam còn bán và cho thuê dài hạn nhiều khu đất để doanh nhân Hoa kiều thành lập những khu kỹ nghệ hay trung tâm thương mại.
Hiện đang có nhiều dự án đầu tư lớn tại Việt Nam do Hoa kiều Đông Nam Á góp vốn như dự án khai thác khu Fairy Land (“Vùng Đất Thần Tiên”) ở Bãi Sau Vũng Tàu trị giá 87,5 triệu USD, khu nghỉ mát thể thao Đồi Cù Đà Lạt, các đồn điền trồng chuối tại Long Khánh (Đồng Nai), Tùng Nghĩa (Lâm Đồng) do các công ty Đài Loan tài trợ. Khu kỹ nghệ-thương mại Tân Thuận do Central Trading and Development và Pan Viet Co Đài Loan nhận thầu, gồm 300 ha với tổng trị giá gần 100 triệu USD, dự trù sẽ hoàn tất vào đầu năm 1993. Ching Fong là một trong sáu công ty Đài Loan có số vốn đầu tư cao nhất tại Việt Nam : 358,9 triệu USD, trong có dự án xây cất nhà máy xi-măng Tràng Kiệu tại Hải Phòng (288,3 triệu USD), nhà máy lắp ráp xe gắn máy (55,6 triệu USD) và một chi nhánh ngân hàng tư nhân (15 triệu USD). Đài Loan nhận thầu sửa chữa lại tòa nhà IMEXCO đường Nguyễn Huệ (hãng Yao Teh), xây cất nhà máy lọc dầu (công ty China Petroleum), làm gỗ (tổ hợp Pan Viet Corp.), dệt (hãng Chung Shing Textile), làm bột ngọt (công ty Ve Wong, Mi An), nhà máy xay gạo, tôm đông lạnh (công ty Wei Tan Food, Sun Moon Star, China Rebar), xây cất Trung tâm thương mại dịch vụ chợ An Đông 35.000 m2 (tăng gấp 5 lần diện tích cũ), kiến thiết nhiều khu chung cư tiện nghi tại quận 5 Sài Gòn, v.v… Tân trang các giang cảng, chuyên chở hàng hải do Jardine Matheson Holdings Ltd., Hồng Kông đảm nhiệm.
Nhiều dự án khai thác dịch vụ du lịch và du hí khác như Khách sạn nổi Sài Gòn (Úc liên doanh với Singapore), khách sạn New World Saigon (thuộc tổ hợp New World Development Co Ltd, Hồng Kông), một loạt các khách sạn Shangrila, khách sạn-khiêu vũ trường năm sao : Volvo, Super Star, các khách sạn lớn đã có sẵn từ trước tại Sài Gòn và các thành phố lớn khác, những dự án xây cất lớn hiện nay đều do Hoa kiều Singapore, Đài Loan và Hồng Kông đảm trách. Trong tương lai sự đầu tư của doanh nhân Hoa kiều sẽ nhiều hơn nữa.
Ngân hàng China Trade and Development Corporation của Quốc Dân Đảng Đài Loan mở văn phòng tại Sài Gòn từ đầu năm 1991, tài trợ cho doanh nhân Đài Loan thăm dò và đầu tư tại Việt Nam. Quốc Dân Đảng Trung Hoa là một thế lực tài chánh lớn nhất Đông Nam Á, nơi nào doanh nhân Đài Loan đến đầu tư đông đảo, nơi đó có bàn tay của Quốc Dân Đảng. Một quỹ tín dụng thành lập hồi tháng 6/1991 mang tên Vietnam Fund Management Co Ltd với số vốn là 30 triệu USD để quản trị các dự án đầu tư tư nhân, trong đó vốn của Hoa kiều Đông Nam Á (Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia và Thái Lan) là chính.
Được hưởng nhiều nới lỏng trong việc đầu tư, doanh nhân gốc Hoa trong nước được tự do nhập cảng các sản phẩm và nguyên liệu từ thế giới Trung Hoa trong vùng Đông Nam Á. Thật ra chỉ có người Hoa mới tranh thủ niềm tin của nhau và chỉ làm ăn với nhau : người Hoa trong nước với người Hoa ngoài nước. Doanh nhân Đài Loan, Hồng Kông và Singapore mở nhiều văn phòng đại diện thường trực trong các khách sạn lớn tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Có 53 công ty Thái Lan do Thai Viet Invexim hướng dẫn đã thiết lập nhiều cơ sở kinh doanh tại miền Nam, người Thái gốc Hoa chiếm đa số vốn.
Tại miền Tây nhiều công ty, xí nghiệp hợp doanh và tư doanh mới được thành lập. UNIMEX (Liên doanh xuất nhập khẩu) Tiền Giang hợp tác với các công ty dệt Đài Loan như Chou Yi Industrial, Vietai International Co v.v… xây dựng nhiều cơ sở may mặc. Vốn của nhiều công ty được tính bằng vàng y. Một số xí nghiệp quốc doanh vay vốn bằng vàng của Hoa kiều với lãi suất khá cao (trên 20%/năm), tiền lời phải trả bằng vàng hay bằng hàng hóa (tôm cá, gỗ…). Năm 1990 một tổng giám đốc Liên hiệp Xuất khẩu UNIMEX Long An, ông Huỳnh Văn Kiệu, tự vẫn vì làm ăn thua lỗ không trả nổi tiền lời cho chủ nợ Singapore. Doanh nhân Thái gốc Hoa đang có nhiều dự án nuôi tôm cá xuất khẩu dọc bờ biển miền Nam (Bến Tre, Tiền Giang, Hậu Giang và Minh Hải). Dân quê miền Nam phá hủy nhiều khu rừng tràm để lấy gỗ làm rạp nuôi tôm.
Vốn luân chuyển của tư bản Hoa kiều Đông Nam Á chỉ quay giữa họ với nhau. Hoa kiều nước này xây cất khách sạn, vũ trường cho những Hoa kiều nước khác đến tiêu xài. Những cơ sở xuất khẩu chỉ xuất khẩu sang các quốc gia có đông người Hoa cư ngụ, những cơ sở nhập khẩu chỉ ưu tiên nhập những hàng hóa xuất phát từ thế giới Trung Hoa. Doanh nhân Hoa kiều còn dự trù xây dựng những nhà ga hàng không lớn những trung tâm thương mại và khách sạn giải trí tại Sài Gòn và Hà Nội, như vậy họ sẽ độc quyền khai thác tiền do những khách ngoại quốc đến Việt Nam, đặc biệt là Hoa kiều. Người Hoa này chi tiền ra, người Hoa kia thâu tiền vô. Vốn của người Hoa bỏ ra chỉ nhằm phục vụ người Hoa. Đây là một tập quán có từ thế kỷ 17, Hoa kiều ly hương giàu có giúp Hoa kiều hải ngoại nghèo khó. Rất khó cho một chính quyền của người bản xứ rút được tiền của người Hoa.
Về giáo dục, từ sau 1975 các trường học đều bị quốc hữu hóa và chỉ dạy tiếng Việt. Học sinh gốc Hoa cũng đến trường học tập, nhưng càng về sau đa số đều bỏ học, nhất là trong những năm 1978-1979 khi có phong trào vượt biên bán chính thức. Trẻ em gốc Hoa thuộc những gia đình bình dân còn ở lại cũng bỏ học vì sinh kế, đa số phụ việc với cha mẹ hay họ hàng buôn bán.
Riêng tại Chợ Lớn, năm 1991, hơn 96.000 trẻ em từ 6 đến 14 tuổi (20% dân số Hoa tại Chợ Lớn) không đến trường, trong số đó 16.600 em chưa biết chữ Việt (18%) và 67.200 em (70%) bỏ học giữa cấp I hoặc không học tiếp cấp II phổ thông. Trẻ em gốc Hoa được huấn luyện từ khi còn nhỏ để làm kinh doanh, học vấn nếu có chỉ để giúp gia đình giao dịch. Học chữ Việt đối với họ trong giai đoạn này không còn là một nhu cầu cần thiết. Một số trường cấp I, II ở quanh Chợ Lớn phải đóng cửa vì thiếu học sinh. Nhiều trường được đem cho thuê hay bán lại cho những thương gia gốc Hoa và Hoa kiều để làm cơ sở kinh doanh.
Những gia đình khá giả, không muốn cho con em của mình học các trường Việt, tìm thầy dạy Hoa ngữ (theo chương trình giáo dục của Đài Loan) và Anh ngữ “tư” với học phí khá cao, sau đó những em này được gia đình cho vượt biên hoặc xuất ngoại hợp pháp. Gần đây tiếng phổ thông (Quan Thoại) được giảng dạy trong các lớp học nhưng trình độ chỉ dừng lại ở bậc trung học. Chỉ một phần rất nhỏ trẻ em gốc Hoa học cả hai ngôn ngữ Việt và Hoa, nhưng ít khi hoàn tất hết bậc trung học.
Sau 1975, một số phong tục tập quán của người gốc Hoa bị cấm diễn ra trên các đường phố như tổ chức ma chay, đình đám. Những gia đình gốc Hoa nào tổ chức linh đình đám đều bị đánh một thứ thuế “ngu” (?), thuế này chỉ đánh vào dân cư gốc Hoa Sài Gòn – Chợ Lớn, các thành phố lớn khác thì cấm hẳn việc tổ chức.
Nhưng sau 1982 khi nhà nước cho phép tư nhân sinh hoạt thương nghiệp, các bang hội người Hoa tái lập lại các ban nhạc đám ma, đám cưới. Mỗi dịp lễ lạc họ xuất hiện ồn ào trên các đường phố, có cộ có tới ba bốn dàn nhạc hộ tống. Những ngày lễ lớn như tết Nguyên Đán, lễ Thượng Nguyên (15 tháng Giêng âm lịch), tết Trung Thu, lễ Phật Đản người gốc Hoa tổ chức ồn ào vui nhộn hẳn lên. Chùa chiền người Hoa đông nghẹt khách thập phương và nhiều đoàn người Hoa đi hành hương khắp miền Nam. Có nơi chính quyền phải giữ trật tự an ninh cho những đoàn cộ đưa Thánh Mẫu (nữ thần hộ mạng của người Hoa) đi qua như tại Thủ Dầu Một. Những buổi lễ “đặt viên đá đầu tiên”, “khai trương “, “điểm tinh khai quang” được tổ chức rất trọng thể, ồn ào và tốn kém. Những đội múa lân của người Hoa làm vui hẳn đời sống chật vật của người dân trong những ngày Tết. Đội lân nổi tiếng tại Chợ Lớn (quận 5) hiện nay là đội lân Nhơn Nghĩa Đường. Mỗi võ đường của người Hoa thường tổ chức lấy các đội múa lân để biểu diễn và cũng để giới thiệu võ đường của mình. dân chúng cũng đua nhau mua liễn đỏ có viết chữ Hoa về treo cho vui cửa đẹp nhà.
Sau 1986, hiện tượng bắt chước lối sống Trung Hoa được phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp dân chúng và còn kéo dài cho đến ngày nay. Hàng hóa có xuất xứ từ Hồng Kông, Đài Loan được chuộng hơn hàng hóa nội địa hay có nguồn gốc Đông Âu, Ấn Độ hay Thái Lan. Đối với dân cư thành thị, sinh hoạt nào muốn được mọi người khen là có văn hóa thì phải có chút gì của Trung Hoa : cách ăn diện và cách tiêu tiền. Nhiều người Việt trong nước đôi khi trách móc tại sao Việt kiều hải ngoại không chi tiêu “sộp” như người Hoa, đầu tư không nhiều, máy móc không hiện đại như người Hoa. Khách du lịch và thương nhân ngoại quốc đến Việt Nam đều được chính quyền cộng sản ưu đãi, nhưng thương nhân và khách du lịch nào mang các quốc tịch Trung Hoa được dân chúng tiếp đón nồng hậu hơn. Người Đài Loan, Singapore hay Hoa kiều từ các nơi khác đều được dân chúng Việt Nam săn đón, mời mọc một cách sốt sắng với hy vọng được trả thù lao cao hơn. Nhiều cơ sở du lịch có mãi dâm do người Hoa bỏ vốn được thành lập để rút tiền những khách ngoại quốc và cán bộ tham nhũng.
Được chế độ cộng sản ưu đãi, thương gia Hoa kiều cùng với một số người Việt gốc Hoa trong nước tổ chức buôn lậu và sản xuất hàng giả (nhái theo kiểu các sản phẩm nổi tiếng của phương Tây). Một số Hoa kiều Đông Nam Á cấu kết với người gốc Hoa địa phương đầu tư lậu máy móc dụng cụ sản xuất để tránh thuế. Năm 1990 nhiều xí nghiệp sản xuất băng vệ sinh bị phát giác là đầu tư lậu như hãng Stitung, Astuce Machine của Đài Loan, Lion Track của Hồng Kông cấu kết với người Hoa trong nước.
Nhiều cách chuyển ngoại tệ của Việt Nam ra hải ngoại bị phát hiện tại các phi cảng, gọi là “đào hối” : thương nhân Đài Loan, Hồng Kông và Singapore khi nhập cảnh mang theo ngân phiếu hàng trị giá trăm ngàn USD (không giá trị) có đăng ký hải quan, khi xuất cảnh những người này mang ra một số lượng tiền mặt bằng ngoại tệ cùng trị giá với ngân phiếu giả. Lượng tiền xuất cảnh lậu này là do những dịch vụ buôn lậu mang lại. Nhiều Hoa kiều khác mang vào trong nước những đồ trang sức, nữ trang, đá quí “giả” có đăng ký, khi về mang theo đồ trang sức, nữ trang, đá quí “thật”.
Trong năm 1991, người ta đã phát hiện một Hoa kiều Hồng Kông (tên Lai Kam Yuen còn gọi là A Dìn) cùng nhiều đồng lõa gốc Hoa sinh sống tại Việt Nam và Campuchia tổ chức in và tiêu thụ giấy bạc giả (loại 2.000 đồng). Nhiều thương gia gốc Hoa khác vì cạnh tranh nghề nghiệp thanh toán lẫn nhau gây án mạng như trường hợp Lai Thiên Hồng tháng 12-1991. Lai Thiên Hồng thuê người giết một Hoa kiều gốc Campuchia tên Yee Ngen You gây xôn xao khắp Chợ Lớn.
Trong nước dân số gốc Hoa không ngừng gia tăng, tỷ lệ tăng trưởng trung bình hiện nay là 2,4% (cả nước là 2,2% năm 1989). Không có số liệu về người Hoa tại miền Bắc sau năm 1979. Trên cả nước năm 1991 có hơn 1,3 triệu người gốc Hoa. Tại Sài Gòn, năm 1988 có 475.739 người gốc Hoa, với tỷ lệ gia tăng dân số bình thường hiện nay dân số gốc Hoa năm 1991 phải trên 500.000 người. Thêm vào đó, Hoa kiều Đông Nam Á đến Việt Nam càng ngày càng đông, một số xin cư trú thường trú vì lý do nghề nghiệp.
Riêng tại đồng bằng sông Cửu Long, sau những đợt vượt biên bán chính thức, năm 1983 dân số gốc Hoa là 233.856 người, năm 1989 tăng lên 323.648 người (gần 100.000 người trong 6 năm). Trong mỗi hộ gia đình gốc Hoa, số nhân khẩu trung bình là từ 5 đến 7 người, nhiều nơi (1/5 gia đình gốc Hoa) có số nhân khẩu từ 7 đến 10 người. Nhiều thế hệ sống chung với nhau dưới một mái nhà.
Phân phối dân số gốc Hoa theo ngữ phương tại 9 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (1983)
Nguồn tin : Thống Kê Kiểm Tra Dân Số Đồng Bằng Sông Cửu Long, Tổng Cục Thống Kê, 1983.
(Trích Mạc Đường : Người Hoa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, Vấn Đề Dân Tộc ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, tr.220-221, Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội Sài Gòn 1991).
(*) Những con số này dựa vào lời khai của người Hoa xác nhận là có nguồn gốc dân tộc Hoa, và đa số ước muốn được di tản hợp pháp khi có điều kiện (được thân nhân báo lãnh). Do đó sự chính xác không tuyệt đối.
(**) Riêng huyện Vĩnh Châu, 80% dân số là người Triều Châu, người ta còn gọi đây là “Tiểu Triều Châu”.
Dân số người Hoa tại ba tỉnh miền Đông (1983) (***)
(***) Phần ghi thêm.
Doanh nhân Hoa đi trước phương Tây trong lãnh vực đầu tư tại Việt Nam. Người Hoa có nhiều lý do để đầu tư : thứ nhất là có sự hỗ trợ về tinh thần và tài chánh của các chính quyền Đài Loan, Singapore, Hồng Kông ; thứ hai muốn chứng minh sự tin tưởng của cộng đồng người Hoa vào chế độ đương quyền qua bộ Luật Đầu Tư để được hưởng đặc quyền, đặc lợi ; thứ ba là muốn có mặt sẵn tại hiện trường phòng hờ khi có chuyển hóa chính trị họ có nhiều cơ may thành công nhất ; sau cùng và quan trọng hơn hết là vì có sẵn một lực lượng người gốc Hoa địa phương làm hậu thuẫn cho những dự án đầu tư. Hoa kiều Phúc Kiến có nhiều cơ hội làm ăn hơn Hoa kiều Quảng Đông và Triều Châu, vì Việt Nam rất cần những đầu tư quan trọng về tín dụng, ngân hàng, hàng hải và sản xuất lớn mà họ có nhiều vốn và kinh nghiệm.
Hoa kiều Đông Nam Á không sợ Hoa Kỳ và đồng minh lên án khi vi phạm lệnh cấm vận vì Việt Nam là một thị trường quá nhỏ đối với phương Tây, hơn nữa Việt Nam đã chấp nhận sống như một quốc gia bình thường trong vùng Đông Nam Á. Thật ra những quốc gia này nằm trong vòng ảnh hưởng của đồng USD do đó rất lệ thuộc vào Hoa Kỳ và Hoa Kỳ cũng biết rất rõ chế độ cộng sản Việt Nam càng lệ thuộc vào tư bản Hoa kiều Đông Nam Á, Hoa Kỳ càng có thể làm áp lực với các quốc gia này để áp lực lại nếu muốn Việt Nam thi hành một vài biện pháp mạnh như về vấn đề tù binh và người Mỹ mất tích.
Hoa kiều Singapore chuyên chú vào các đầu tư giải trí xa hoa như các khách sạn, nhà hàng ăn chơi. Họ chủ trương thu hút những số tiền của doanh nhân Hoa kiều đến tìm hiểu thị trường Việt Nam, của Việt kiều về nước giúp đỡ thân nhân và của thành phần giàu có mới hơn là chuẩn bị làm ăn lâu dài. Kim ngạch trao đổi hàng năm với Singapore khoảng 309 triệu USD/năm và doanh nhân Singapore đã tham dự ít nhất 7 trong số 248 dự án đầu tư với tổng số vốn trên 15 triệu USD. Cho đến 1991 tổng số thương vụ và dự án đầu tư của thương gia Singapore lên đến 1 tỷ USD.
Tư nhân Đài Loan chuyên chú vào các xí nghiệp sản xuất công nghiệp nhỏ với hy vọng sẽ có mặt thường xuyên và sẽ đầu tư lớn khi hoàn cảnh cho phép. Doanh nhân các tổ hợp Đài Loan chỉ tham gia đầu tư vào những dự án lớn với điều kiện được khai thác từ 20 đến 70 năm. Hoa kiều Hồng Kông đầu tư nhiều vào dịch vụ khách sạn, ăn uống và các cơ sở chế biến thực phẩm với hy vọng ở luôn tại Việt Nam sau năm 1997. Hoa kiều Thái Lan và các nước khác chia nhau những gì còn lại có thể khai thác được như đầu tư vào các loại khách sạn hạng trung (hai ba sao), các cơ sở sản xuất ngư phẩm đông lạnh, thực phẩm đóng hộp, nước giải khát, chế biến gỗ…
Cũng phải nói tới một dự án lớn trị giá 12 tỷ USD của công ty Leonardo (Thụy Sĩ và Pháp) thuê đảo Phú Quốc trong thời hạn 50 năm để biến đó thành một trung tâm mậu dịch lớn tại Đông Nam Á, trong đó dự định chuyển một số người Hoa Hồng Kông sang lập nghiệp sau 1997. Dự án này được nhiều tổ chức người Việt Nam hải ngoại chia sẻ, vì tưởng đó là dự án của Liên Hiệp Quốc thuê đảo Phú Quốc đưa người tị nạn tại những trại cấm tại Đông Nam Á (Hồng Kông, Thái Lan và Mã Lai) về định cư. Người Pháp muốn thế chân Anh Quốc trong việc xây dựng một khu vực phi quan thuế tại Đông Nam Á, nhiều người nói Phú Quốc sẽ là một Hồng Kông kiểu Pháp. Doanh nhân Hoa kiều sẽ là những nhóm cư dân mới, nhất là những doanh nhân đến từ Hồng Kông.
Hoa kiều gốc Việt Nam đầu tư vào các ngành chế biến nhỏ (cơ điện, giầy dép, cao su, hàng tiêu dùng bằng kim khí) và khai thác các tiệm tạp hóa gia đình và nghề bốc thuốc bắc. Nơi tập trung chính vẫn là khu vực Chợ Lớn : quận 5, 6, 8, 10, 11 và Phú Nhuận. Người gốc Hoa gần như độc quyền về sản xuất giầy dép nhựa, phụ tùng xe đạp, vật liệu về xây cất (sơn, vôi, gạch ngói, đinh vít), dệt vải thô sơ, cơ điện nhỏ.
Theo những số liệu thống kê ghi nhận được tại Sài Gòn, năm 1990 lượng hàng hóa trao đổi với Singapore chiếm 30% tổng số thương vụ toàn quốc, với Hồng Kông 20%. Riêng trong sáu tháng đầu năm 1991, lượng hàng hóa trao đổi giữa Sài Gòn với thế giới đã lên đến gần 1 triệu tấn, được phân phối như sau : Singapore (35%), Hồng Kông (15%), Nhật Bản (10%), Đài Loan (5%), Thái Lan (5%), Đại Hàn (5%), Liên Xô (5%), 20% còn lại là với các quốc gia khác. Xuất cảng sang Singapore chủ yếu là dầu thô, nông ngư phẩm, gia súc, sắt vụn, đồng, kim loại phế thải… Hàng hóa nhập khẩu chính thức từ Singapore là phân bón, dầu diesel, dầu mazout, sợi polyester, nhựa các loại, bột sữa, giấy… Hàng nhập lậu từ Singapore là thuốc lá, máy móc điện tử, xe hơi, xe gắn máy, xa xỉ phẩm, v.v…
Người Hoa tại Việt Nam hưởng một giai đoạn tương đối dễ chịu từ sau 1986. Hàng hóa của họ sản xuất ra có phẩm chất cao, giá thành hạ hơn hàng quốc doanh, và có ngay một thị trường tiêu thụ lớn (gần 70 triệu người trên toàn quốc). Sản lượng hàng công nghiệp nhẹ của người Hoa đã đáp ứng phần nào nhu cầu của toàn quốc nhưng vẫn còn một hạn chế là chưa cạnh tranh nổi với số hàng lậu từ các tàu buôn ngoại quốc và vùng biên giới, nhiều cơ sở sản xuất phải đóng cửa.
Nền thương mại còn kém cỏi của Việt Nam hiện nay hoặc do nhà nước cộng sản, hoặc do người Hoa nắm giữ. Người Việt trong và ngoài nước chưa có vai trò đáng kể.
Với sự tham gia đông đảo của người Hoa vào sinh hoạt kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi quan trọng. Mức sống của dân chúng trong nước được nâng cao nhờ được tự do buôn bán kiểu tư thương. Người Hoa đã góp phần không nhỏ trong việc làm gia tăng nguồn hàng hóa trên toàn xã hội.
Với sự tham gia hợp pháp của người gốc Hoa vào sinh hoạt kinh tế, chính quyền cộng sản không còn phải bôn ba trong việc thu mua, sản xuất và phân phối hàng hóa. Vai trò bà nội trợ xã hội, một vai trò mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa đều muốn giữa độc quyền, đang chuyển dần cho tư nhân, đặc biệt là tư thương gốc Hoa. Người Hoa đã cho chế độ cộng sản hiểu thế nào là lợi ích của kinh tế thị trường.
Chính sách kinh tế thị trường được áp dụng tại Việt Nam sau 1987, thương gia gốc Hoa và Hoa kiều đảm nhận vai trò tìm hiểu thị trường, sản xuất và tổ chức phân phối, nhà nước cộng sản chỉ có vai trò kiểm soát. Cán bộ viên chức nhà nước hoặc vì lòng tham, hoặc vì thiếu hiểu biết hay mất tin tưởng ở chế độ, làm đảo lộn tất cả các qui luật về kinh tế thị trường, gần như cơ quan, cán bộ nào cũng có tham nhũng hay buôn lậu. Người Hoa nào muốn làm ăn lâu bền cũng phải biết cách đút lót, hối lộ để được tiếp tục hoạt động. Chuyện hối lộ, đút lót, gian lận đã trở thành một nếp sống, ai cũng biết là xấu nhưng không ai có khả năng loại trừ. Nhà nước tổ chức học tập, hội thảo về chống buôn lậu, tham nhũng nhưng việc đâu còn đó, có khi còn trầm trọng hơn. Tại một vài địa phương, các tỉnh biên giới, cán bộ tham nhũng dung túng gian thương và buôn lậu, thách thức lại chính quyền trung ương.
Về phía người Việt Nam, chính quyền cộng sản tìm mọi cách áp chế để không cho lãnh vực tư nhân phát triển mạnh vì sợ mất vai trò chỉ đạo. Nhà nước nắm giữ những cơ sở xuất nhập khẩu lớn và sản xuất quan trọng, nhưng không có khả năng điều hành : 40% cơ sở kinh doanh quốc doanh làm ăn lỗ lã, không có hiệu quả kinh tế. Khu vực quốc doanh năm 1990 thâm hụt 1.300 tỷ đồng (173,3 triệu USD), năm 1991 trên 2.000 tỷ đồng (250 triệu USD) bằng ngân sách của nhà nước. Hệ thống ngân hàng nhà nước không làm chủ nguồn tiền mặt để chi dùng cho khu vực quốc doanh. Ngân hàng ngoại thương có lúc không đủ tiền mua ngoại tệ đã cậy tư thương gốc Hoa hay Hoa kiều mua tiếp sức để rồi sau đó phải chật vật cạnh tranh với họ trong việc giành lại quyền ấn định tỷ giá hối suất.
Khả năng kinh doanh của người Việt
Trong nước, người dân bị chính quyền cộng sản khống chế không có khả năng tập trung tài chánh cao và cũng không có ý định kinh doanh lớn vì sợ bị quốc hữu hóa. Dân chúng sống thụ động, chờ người Việt hải ngoại làm cái gì đó để lôi kéo đất nước ra khỏi bế tắc. Người Việt hải ngoại thì hy vọng người trong nước ra tay trước, bên ngoài họ sẽ hỗ trợ. Cả hai cộng đồng, bên này trông vào bên kia, không ai làm gì cả.
Tại hải ngoại, một số cá nhân và hội đoàn tranh đấu, hoặc vì quá căm hận chế độ cộng sản, hoặc vì muốn cắt đứt quan hệ với trong nước, làm áp lực trên cộng đồng người Việt hải ngoại qua báo chí, hội thảo chụp mũ những ai có ý định trở về Việt Nam là tiếp sức cho cộng sản. Một số văn nghệ sĩ hải ngoại lên án mọi giao lưu văn hóa và kinh tế giữa trong và ngoài nước. Họ chống lại mọi hình thức tiếp tay cho thân nhân còn kẹt lại trong nước, du lịch hay về nước đầu tư, vì cho đó là những hành động nhằm kéo dài sự cai trị của chế độ cộng sản.
Thực ra tổng số vốn của doanh nhân Việt Nam hải ngoại về nước đầu tư chẳng thấm vào đâu so với những khoảng tiền khổng lồ mà doanh nhân Hoa kiều đã bỏ ra. Tất cả những dịch vụ đầu tư của người Việt hải ngoại là những cố gắng cá nhân, do đó thiếu tầm vóc để có thể cạnh tranh với các thế lực kinh tài của người Hoa.
Một số tổ chức hải ngoại quá khích muốn duy trì sự ngăn cách giữa quốc nội và quốc ngoại để độc quyền khai thác thị trường người Việt hải ngoại. Đối với họ quốc nội không còn là nỗi bận tâm chính , chính quyền cộng sản muốn làm gì với người trong nước thì làm miễn đừng xâm phạm đến thị trường của họ tại hải ngoại là được. Về phía chính quyền cộng sản, họ cùng chỉ muốn duy trì cộng đồng người Việt hải ngoại ở vị trí Việt kiều, vị trí những người khách vì sợ những người này khi tham gia trực tiếp vào lãnh vực kinh tế sẽ bất lợi cho chế độ. Việt kiều về nước thế nào cũng phổ biến cho người trong nước biết thế nào là tự do, dân chủ, đa nguyên, tiến bộ, bình đẳng ở xứ người, những điều mà chế độ cộng sản rất sợ hãi và lên án nặng nề. Việt kiều, vì những lý lẽ trên, không có chỗ đứng trong nước, mặc dầu rất được nhà nước cộng sản ve vãn.
Do không tin cậy lẫn nhau, chuyện phát triển đất nước phó mặc cho doanh nhân ngoại quốc khai thác vì họ không đe dọa thế đứng chính trị của ai cả. Hoàn cảnh đất nước ngày nay giống như thời Trịnh-Nguyễn, người Việt cứ sợ người Việt, mặc cho ngoại nhân tha hồ khai thác tài nguyên của đất nước. Vai trò của doanh nhân Việt trong và ngoài nước không được chính quyền cộng sản đặt nặng.
[Lý luận của một số người Việt chống cộng cực đoan hải ngoại là ngày nào còn chế độ cộng sản thì ngày đó không có quan hệ đầu tư. Nhiều người vận động yêu cầu Hoa Kỳ duy trì lệnh cấm vận để cô lập chính quyền Hà Nội, người khác hô hào thế giới gia tăng áp lực buộc chính quyền cộng sản tự thay đổi theo hướng dân chủ. Mọi người đều chờ đợi “quyết tâm” của thế giới và “thiện chí của chính quyền cộng sản Việt Nam”].
Sự thiếu vắng một đội ngũ doanh nhân có tầm vóc là thiếu sót lớn của Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề trọng đại đặt ra cho những ai có tham vọng dẫn đưa đất nước đi lên. Một quốc gia muốn giữ độc lập kinh tế không thể không có một đội ngũ doanh nhân có tầm vóc. Một quốc gia hùng mạnh cần phải thành lập cho riêng mình những người có óc mạo hiểm, trí sáng tạo, những người dám đem tài sản riêng ra đánh cuộc với rủi ro để làm giàu. Những đức tính này xã hội Việt Nam đang thiếu và “con người” Việt Nam cũng chưa được chuẩn bị để tôn vinh giai cấp doanh nhân.
Doanh nhân Việt Nam chưa có khả năng tập trung vốn cao, chưa sẵn sàng kết hợp thành những tập đoàn lớn. Người trong nước trông cậy rất nhiều ở doanh nhân hải ngoại, nhưng doanh nhân hải ngoại hiện nay quá yếu. Chúng ta chỉ có những chuyên viên cao cấp, một giai cấp chỉ có thể đi làm công cho thiên hạ chưa đủ bản lãnh để đứng ta làm chủ. Người Hoa thì ngược lại, họ đào tạo thành phần doanh nhân ngay từ lúc còn nhỏ, trẻ em Trung Hoa đã được gia đình khuyến khích nghề làm chủ. Tinh thần đó được cả một tập đoàn gắn bó có khả năng kết hợp cao (bang hội) đứng sau lưng thúc đẩy doanh nhân trẻ đi lên. Tinh thần đó được truyền dạy cho nhau liên tục từ nhiều thế hệ. Bí quyết thành công của người Hoa là tạo cho bằng được chữ Tín (danh dự của người đứng ra nhận lãnh một trách nhiệm). Mất chữ Tín là mất sự nghiệp.
Người Việt cần phải học tập rất nhiều về nghề kinh doanh và chữ Tín của người Hoa. Doanh nhân Việt Nam trong giai đoạn hình thành có thể thua kém doanh nhân Hoa kiều nhưng với thời gian, nhờ sự quyết tâm, óc thông minh và lòng can đảm sẽ bắt kịp người Hoa trong một thời gian không xa. Xây dựng được lực lượng này Việt Nam sẽ giảm được tình trạng chủ nhân là người ngoại quốc và nhân viên phục dịch là người Việt.
Điểm lại khả năng
Tại hải ngoại, một số nhà doanh nghiệp thân chế độ, đa số là hội viên của các hội “Việt kiều yêu nước”, đang có những nỗ lực đầu tư trong nước. Đa số đầu tư vào những lãnh vực mà nếu có mất vốn thì mất ít, nhưng tốc độ thu lãi nhanh. Phần lớn hoạt động kinh doanh của họ tập trung vào các ngành dịch vụ : nghiên cứu thị trường, tin học, mài dũa đá quí, xuất nhập khẩu với những số vốn nhỏ (từ 10 đến 200 ngàn USD). Hiện nay không có số liệu về những công ty loại này nhưng con số chắc chắn không quá 100 cơ sở (cho đến 1991). Dầu sao đây cũng là những cố gắng đáng khuyến khích. Nếu vì những thành kiến hạn hẹp nào đó, những người chống chế độ bài xích hoạt động của những doanh nhân này, e rằng còn rất lâu Việt Nam mới có thể xây dựng một đội ngũ doanh nhân nắm vững tình hình đất nước có khả năng hoạt động ngay.
Trở ngại chính của thành phần doanh nhân “Việt kiều yêu nước” là họ không có nhiều vốn và điều kiện để tung hết khả năng vào kinh doanh. Tại nhiều nơi họ vẫn bị chính quyền trung ương và địa phương, nhất là nhân viên trực thuộc bộ nội vụ (công an), làm khó dễ trong việc thành lập cơ sở, nghiên cứu thị trường. Thêm vào đó một số người Việt trong nước ganh ghét sự thành công của một vài doanh nhân Việt kiều đã nói xấu và làm hại lẫn nhau. Thực tế thì cũng có nhiều doanh nhân “dởm” khoe tiền khoe của và lợi dụng sự ngây dại của người trong nước để trục lợi (trường hợp công ty Kieu My Trading Co của bà Kiều Mỹ tại Singapore chuyên lường gạt các viên chức cao cấp trong chính quyền cộng sản) nhưng thành phần này không tồn tại lâu. Số còn lại về Việt Nam với mơ ước giúp nước và cũng để thử thời vận nhưng vì không biết hay không chịu đút lót (thật ra họ cũng biết mua chuộc cán bộ nhưng vì thành phần tham nhũng quá đông không thể mua chuộc hết) đã không được biệt đãi như người Hoa. Có người sau một thời gian kinh doanh bị nhà nước không những xiết hết vốn liếng mà còn bị kết cho những tội danh mơ hồ như “nói xấu chế độ”, “chống lại chủ nghĩa xã hội”, v.v…
Cũng nên phân biệt những doanh nhân này với thành phần “tư bản đỏ”, những người được sự đỡ đầu của chế độ đã trở nên giàu có. Những “tư bản đỏ” này nắm vai trò chỉ đạo trong những công ty quốc doanh có thu hoạch cao như xuất nhập khẩu (gạo, gỗ, hải sản, máy móc điện tử, phân bón, hóa chất v.v…), vận tải và du lịch. Một số trở nên giàu có, sống phung phí, xa hoa, trụy lạc không kém thành phần “tư sản mại bản” mà trước đó họ đã lên án và bỏ tù. Đa số đều có trương mục riêng tại ngoại quốc phòng hờ khi có biến. Những “tư bản đỏ này không có gì để mất cả, vốn liếng không do họ bỏ ra, hiệu quả kinh tế không do họ quyết định, nhưng nhờ chức vụ họ có thể cất làm của riêng những doanh lợi bất chính do ăn cắp, tham nhũng hay móc ngoặc. Đa số sống tập trung tại Sài Gòn (Hà Nội cũng có thành phần “tư bản đỏ” nhưng không thấm vào đâu nếu so với những “quái kiệt” của Sài Gòn).
Tuy vậy nền kinh tế nhà nước cộng sản còn chạy được là nhờ một số những người thật sự muốn kinh doanh, có người vẫn còn là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. So với người trong nước, những người này được xem là có khả năng nhưng họ cũng đang khốn đốn với nạn tham ô, cửa quyền của các cấp chính quyền, thường thì họ phải ăn chịu với các viên chức tham nhũng mới được tồn tại. Đó là trường hợp các ông Võ Quốc Thắng (chủ nhân hãng gạch Đồng Tâm), Lê Văn Kiêm (tổng giám đốc hãng may Huy Hoàng với số doanh vụ khoảng 37 triệu USD/năm), Đinh Công Hùng (tổng giám đốc hãng dệt Thành Công, tên cũ là Tái Thành của bà Đoàn Thị Mỹ), Nguyễn Đăng Quang (giám đốc công ty sơn mài Lam Sơn), Nguyễn Bi (tổng giám đốc công ty bột ngọt Vifon tức công ty Vị Hương Tố cũ của Trần Thành), Nguyễn Minh Luân (giám đốc công ty Dược Phẩm 24, hãng OPV cũ của Nguyễn Cao Thăng), Hồ Chí Công (giám đốc công ty bột giặt Tico tức Viso cũ của Trương Văn Khôi), Dương Văn Đầy (giám đốc Sài Gòn Tourist), và phải kể thêm những giám đốc các công ty xuất nhập khẩu, công ty xăng dầu, cơ quan hải quan v.v…
Nhiều công ty dịch vụ của chính quyền cộng sản làm nhiệm vụ chuyển tiền ra nước ngoài cho một số quan chức cao cấp. Các công ty liên doanh của Hoa kiều cũng gián tiếp giúp chuyển ngân thẳng vào trương mục các ngân hàng ngoại quốc trong nước và ngoài nước cho những “tư bản đỏ” hay những quan chức cao cấp trong chính quyền. Bù lại những Hoa kiều này được mua lại những phần đất béo bở nhất tại các trung tâm thành phố hay khu du lịch, họ tự do khai thác thị trường Việt Nam, kể cả những dịch vụ đồi bại nhất (cờ bạc, mãi dâm, ma túy). Một số cán bộ cao cấp chuyển cho thân bằng quyến thuộc những tài sản và cơ nghiệp của quốc gia qua hình thức giải tư, hóa giá. Những người đắc thụ tài sản này sang nhượng hay bán lại cho tư bản Hoa kiều để tránh tiếng, sau đó mua lại những cơ sở kinh doanh có tầm vóc nhỏ để hợp pháp hóa lý lịch cộng sản của mình.
Doanh nhân Việt Nam trong nước cũng có nhiều cố gắng đầu tư tại chỗ. Đa số hoạt động trong các ngành sản xuất công nghiệp nhẹ : chế biến cao su, hóa chất, gỗ, hàng mỹ nghệ nhưng vắng mặt trong các ngành thực phẩm chế biến, vật liệu gia dụng (nồi niêu xoong chảo, bếp lò), dệt, may mặc và giầy dép công nghệ. Vốn liếng của những cơ sở doanh nghiệp này, lớn nhất cũng không quá 200.000 USD và đa số tập trung tại Sài Gòn. Vốn liếng đầu tư tuy có thấp hơn người Hoa nhưng trình độ của nhân viên điều hành hơn hẳn. Thành phần cán bộ chỉ đạo các công ty tư doanh Việt Nam đa số đều có trình độ đại học, có khả năng thích nghi với những qui luật kinh doanh quốc tế và giao thiệp với khách hàng phương Tây.
Thật ra trong tiềm thức của một số người Việt, quán tính nô lệ vẫn còn ngự trị. Nó là hậu quả của hơn một ngàn năm bị làm nô lệ và gần 100 năm bị đô hộ để lại. Các chính quyền Việt Nam lúc nào cũng muốn lấy lòng người ngoại quốc và làm đủ mọi cách để lấy lòng họ với hy vọng được che chở hay nâng đỡ, trong khi đối với người trong nước thì rất khe khắt. Một người ngoại quốc cho dù có hách dịch đến đâu cũng dễ được chính quyền bỏ qua hơn một người trong nước.
Năm 1991, hệ thống xã hội chủ nghĩa suy sụp trên toàn thế giới, nhất là tại Liên Xô và Đông Âu, chế độ cộng sản Việt Nam hướng về Trung Quốc. Nhiều phái đoàn cao cấp liên tiếp sang Trung Quốc xin cải tiến bang giao và giúp đỡ. Vấn đề “nạn kiều” và tranh chấp biên giới trước đây được Trung Quốc nêu ra và yêu cầu bồi thường. Hà Nội mời nhiều phái đoàn thương gia Trung Quốc sang Việt Nam thành lập cơ sở thương mại, nhất là tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Sài Gòn và đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo, để quân bình hóa sự có mặt quá áp đảo của tư bản Hoa kiều Đông Nam Á.
Trái với ước muốn của Hà Nội, thay vì trao đổi hợp pháp giữa hai nước hoạt động buôn lậu tại vùng biên giới gia tăng cường độ. Chính quyền Vân Nam và Quảng Tây thành lập nhiều khu vực dành riêng cho giới buôn lậu mua bán, thị trấn Băng Tường (Quảng Tây) là nơi trao đổi hàng lậu lớn nhất. Nhiều xí nghiệp sản xuất của Trung Quốc trước kia bị ế ẩm nhộn nhịp trở lại nhờ buôn lậu với Việt Nam (bia Vạn Lịch, xe đạp Phượng Hoàng, đồng hồ Rado, vật liệu xây cất và trang trí nhà cửa). Lạng Sơn là nơi tích tụ hàng lậu trước khi chuyển sang Trung Quốc hoặc chuyển về miền Nam. Những khu vực quanh cửa khẩu nhà cửa, dinh thự mới được xây cất với vật liệu nhập lậu trực tiếp từ Trung Quốc. Cửa khẩu Hữu Nghị là nơi hàng lậu được chuyển vận công khai với khối lượng lớn. Đường xe lửa Hữu Nghị được tái thiết nhằm nối liền Quảng Tây với Hà Nội chỉ được dùng để chở hàng lậu một cách hợp pháp vào Việt Nam. Quảng Ninh là nơi tập hợp hàng lậu chở bằng đường bộ và đường biển vào Trung Quốc (thuốc lá phương Tây, hàng điện tử Hồng Kông, xe hơi Nhật Bản).
Trung Quốc và Việt Nam khốn đốn trước nạn buôn lậu, nhưng Việt Nam chịu nhiều thiệt hại hơn. Nhiều cơ sở kinh tế và xí nghiệp trong nước phải đóng cửa, sa thải nhân viên vì không cạnh tranh nổi với nguồn hàng nhập lậu. Doanh nhân Hoa kiều đầu tư vào các ngành công nghiệp nhẹ (dệt vải, thực phẩm chế biến, giầy dép) phải giảm hoạt động trước sự xâm nhập của hàng lậu Trung Quốc. Những người làm ăn lương thiện, bất mãn trước tình trạng vô chính phủ, chỉ biết chịu đựng chờ phong trào buôn lậu giảm bớt cường độ.
Chủ quyền đất nước đang bị đe dọa. Để đối phó với dân buôn lậu, quân đội Trung Quốc gia tăng áp lực quân sự, họ ngang nhiên bắt giữ nhiều tàu buôn ngay trong hải phận Việt Nam, tịch thu các xe hàng Việt Nam. Tại Lạng Sơn, quân đội biên phòng Trung Quốc xây dựng nhiều đồn kiểm soát ngay trong lãnh địa Việt Nam (cửa khẩu Hữu Nghị, Móng Cái), coi thường bộ đội biên phòng Việt Nam. Hải quân Trung Quốc chiếm các vùng hải đảo có tài nguyên khoáng sản cao ngoài khơi Biển Đông và Vịnh Bắc phần. Nguồn lợi về kinh tế của miền Nam hiện nay gần như nằm trong tay tư bản ngoại quốc, nhất là tư bản Hoa kiều. Nhiều vùng đất lớn quanh Sài Gòn và thắng cảnh có tiềm năng du lịch và kinh tế cao đã nhượng cho doanh nhân Hoa kiều khai thác.
Thêm vào đó, doanh nhân của ba quốc gia Trung Hoa : Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thành lập một khối kinh tế gọi là Khu Vực Kinh Tế Trung Hoa (CEA-Chinese Economic Area), gọi tắt là khối kinh tế Đại Hán (xem Phụ lục 1) nhằm phân chia ảnh hưởng trên các thị trường trong khu vực. Theo đó miền Bắc Việt Nam nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc, miền Nam thuộc ảnh hưởng của Đài Loan và Hồng Kông. Để tránh tiếng độc quyền khai thác thị trường Việt Nam, Trung Quốc cũng thực hiện một vài dự án đầu tư tại Vũng Tàu và Đài Loan cũng trình vài dự án phát triển kinh tế tại Hà Nội và Hải Phòng.
Doanh nhân Hoa kiều biết chắc khi nào Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam sẽ được hưởng qui chế tối huệ quốc đối với thị trường Hoa Kỳ, và cũng là thị trường chính của khối kinh tế Đại Hán. Hàng hóa của doanh nhân Trung Hoa sẽ gián tiếp tuôn vào Hoa Kỳ qua các cơ sở của họ tại Việt Nam. Hoa Kỳ là một thị trường lớn mà bất cứ quốc gia nào trong vùng Đông Nam Á cũng muốn tiếp cận. Hiện nay hai con rồng Châu Á (Đài Loan và Hồng Kông) cũng nhờ qui chế tối huệ quốc của Trung Quốc mà tuôn hàng hóa sản xuất của mình qua ngỏ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Tại Việt Nam doanh nhân Trung Hoa củng sẽ không bỏ lỡ một cơ hội hiếm hoi này. Sự có măt của họ tại Việt Nam hiện nay không có lợi mấy cho đồng tiền bỏ ra nhưng về lâu về dài những đầu tư sẽ mang đến những món lợi bất ngờ.
Chính vì thế doanh nhân Đài Loan và Hồng Kông yêu cầu Việt Nam duyệt lại các thời hạn thuê mướn đất đai từ 15-20 năm lên 50-70 năm, một hình thức thuộc địa hóa Việt Nam một cách hợp pháp và hòa bình. Chính quyền cộng sản Việt Nam, có lẽ cũng biết ý đồ này nhưng không có giải pháp nào khác, đã thỏa mãn gần như tất cả những yêu sách của doanh nhân Hoa kiều. Và cũng do kém hiểu biết về việc quản lý kinh tế và quản trị xí nghiệp, chính quyền cộng sản Việt Nam bất lực trong việc tìm hiểu doanh vụ của thương nhân Hoa kiều. Viên chức chính quyền dành nhiều thì giờ để tham nhũng hơn là kiểm soát hoạt động của các thương gia Hoa kiều. Trong một số lãnh vực kinh tế, doanh nhân Hoa kiều cố vấn cho các viên chức chính quyền cộng sản địa phương trong việc quản lý và quản trị xí nghiệp. Tuy nhiên cũng còn một số rất đông công ty Hoa kiều khác, ngoài Khối Kinh Tế Trung Hoa, chờ một thay đổi chính trị hướng về dân chủ để đầu tư và sinh hoạt lương thiện và lâu dài hơn.
Thật ra thì hợp tác với Trung Quốc, Đài Loan hay Hồng Kông gì cũng là hợp tác với khối kinh tế Đại Hán. Người Hoa có tham vọng xây dựng lại thời vàng son cũ : Trung Hoa là nước ở giữa, chung quanh là các quốc gia chư hầu, trong đó có Việt Nam. Khối kinh tế này được thành lập theo thế chân vạc, đúng thuật dụng binh thời Tam Quốc để chia sẻ bớt ảnh hưởng của Nhật Bản và phương Tây đang phát triển mạnh trong vùng. Thay vì để các chư mang phẩm vật đến triều cống, doanh nhân Hoa kiều đến trực tiếp khai thác tài nguyên nhân vật lực và mang về nước những phần lợi to lớn nhất. Trực tiếp hay gián tiếp đầu tư, đằng nào khối kinh tế Trung Hoa cũng giữ phần lợi về họ, chỉ có dân tộc Việt Nam là bị thiệt thòi. Nếu tình trạng này còn kéo dài, và chừng nào lệnh cấm vận còn duy trì, sẽ đến một lúc Việt Nam có thể trở thành một thuộc địa kinh tế và văn hóa của thế giới Trung Hoa.
Vợ của cố lãnh đạo phe đối lập Nga Alexei Navalny cho biết ông đã…
Cuộc nổi dậy hôm 8/9/2025 do thế hệ Gen Z khởi xướng đã chấm dứt…
Chúng ta cần tỉnh táo: không phải ai chết trong chính trị cũng là anh…
Như tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền (DTD) đưa tin, vào cuối tháng 8…
Trong chuyến đi diễn thuyết tại nhiều nơi ở Hoa Kỳ và Canada, chiều ngày…
Sự ồn ào phát sinh từ cái tên “Tiến sĩ Đoàn Hương” làm tôi nghĩ…