Kho
tàng di tích lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của Paris đều nằm ở hai bên
bờ sông Seine. Những di tích trên bờ tả ngạn phần lớn đã có từ thời
Trung Cổ, được tân trang và cải tiến dần với thời gian, và tồn tại cho
đến ngày nay. Có bảy khu vực chính cần được đi thăm : Quartier des
Invalides và la Tour Eiffel, Quartier Saint Germain des Prés, Quartier
Latin, Quartier du Luxembourg, Quartier du Jardin des Plantes,
Montparnasse và Quartier chinois.
Paris bên bờ tả ngạn
Khu Invalides và Tháp Eiffel (quận 7)
Khu
vực này nổi tiếng với hai kiến trúc độc đáo đối lập hẳn nhau : điện
Ivalides và tháp Eiffel, với hai thảm cỏ rộng nhất Paris : Champs de
Mars và Esplanade des Invalides.
Les
Invalides (Avenue de Tourville) là một khu nhà rộng lớn (13 hecta) dành
cho quân đội được vua Louis XIV giao cho Libéral Bruant xây dựng, từ
1671 đến 1676, để chăm sóc thương phế binh. Invalides có nghĩa là phế
tật. Năm 1677 Jules Hardouin-Mansart xây một ngôi nhà thờ ở giữa các dãy
nhà cho vua và thương bệnh binh cầu nguyện (nhà thờ Saint Louis des
Invalides) với một nóc vòm đồ sộ hình tròn mạ vàng đẹp nhất Paris (Dôme
des Invalides). Trong hai cuộc thế chiến, khu Invalides được biến thành
quân y viện.
Năm
1890, 19 năm sau ngày từ trần, hài cốt Napoléon đệ I được cải táng ngay
dưới nóc vòm Invalides ; mộ phần Napoléon bằng đá đỏ do điêu khắc gia
Joachim Visconti thực hiện trong suốt 27 năm (xong năm 1861). Từ đó, hài
cốt các tướng lãnh có công với đất nước (Sébastien Le Prestre de
Vauban, Joseph Bonaparte, Foch, Lyautey) đều được mang về cải táng dưới
nóc vòm này. Ngày nay khu Invalides trở thành văn phòng của tổng tư lệnh
quân đội Paris và những văn phòng hưu bỗng của quân đội, với ba viện
bảo tàng : bảo tàng Huân Chương Giải Phóng (1946) cất giữ những bằng
khen và hình ảnh kháng chiến chống Đức, bảo tàng Địa Đồ thành phố Paris
với bộ sưu tầm mô hình của vua Louis XIV và bảo tàng Quân Đội trưng bày
các loại vũ khí, đặc biệt là những công trạng của Napoléon I. Cửa vào
chính diện là một khu vườn cắt tỉa gọn đẹp trưng bày các khẩu đại bác
đầu thế kỷ 18.
Năm
1890, 19 năm sau ngày từ trần, hài cốt Napoléon đệ I được cải táng ngay
dưới nóc vòm Invalides ; mộ phần Napoléon bằng đá đỏ do điêu khắc gia
Joachim Visconti thực hiện trong suốt 27 năm (xong năm 1861).
Cách
đó không xa là Hôtel Matignon (57 rue de Varenne), được xây dựng năm
1721 bởi Jean Courtonne và hoàn tất bởi con gái vị hoàng tử Monaco, bà
này sau đó có tên là bà nam tước de Matignon. Từ 1959 trở đi ngôi nhà
này trở thành Phủ thủ tướng, nơi cư ngụ và làm việc của thủ tướng nước
Pháp.
Đối
diện với bờ sông và cầu Concorde là Assemblée nationale (Hạ Viện), còn
gọi là Palais de Bourbon (126 rue de l’Université). Tòa nhà to lớn này
được kiến trúc theo kiểu La Mã, xây năm 1722 và hoàn tất năm 1728, là
nơi cư ngụ của bà bá tước de Bourbon (con gái vua Louis XIV), sau đó bị
tịch thu dưới thời cách mạng để làm nơi hội họp của Conseil des Cinq
cents (Hội đồng 500 đại biểu nhân dân) và cuối cùng trở thành tòa nhà
quốc hội cho tới ngày nay.
Bên
cạnh khu Invalides là bảo tàng Rodin (77 rue de Varenne) trưng bày các
tác phẩm điêu khắc nổi tiếng của Rodin (mất năm 1917), như Le Penseur
(Người suy tư), Le Baiser (Nụ hôn), Porte de l’enfer (Cổng địa ngục).
Chệch lên phía Bắc là Fontaine des Quatre Saisons (Hồ phun nước bốn mùa,
57-59 rue de Grenelle) với những tượng nổi chạm khắc tuyệt đẹp. Căn nhà
Seita cách đó không xa là nơi sản xuất thuốc lá đầu tiên của Pháp (thế
kỷ 15), năm 1963 trở thành Viện bảo tàng thuốc lá Seita (12 rue de
Surcouf) trưng bày cách sản xuất xưa và nay, các loại thuốc lá trong năm
thế kỷ qua.
Đối
diện với cầu Alma là nơi dẫn xuống các đường cống ngầm (les égouts)
dưới thành phố Paris (cửa vào đối diện số 93 Quai d’Orsay). Hệ thống
cống rãnh của Paris có từ thế kỷ 14, được tu bổ và tân trang lại dưới
thời Napoléon III do kỹ sư Eugène Belgrand thực hiện năm 1878, dài 600
km ; ngày nay tổng số đường cống ngầm là 2.100 km. Từ 1867 đã có những
cuộc viếng thăm hệ thống cống ngầm bằng đường rầy và bằng ghe nhưng từ
1972 trở đi các cuộc viếng thăm đều bằng chân, tên mỗi con đường trên
mặt đất đều được ghi lại ở mỗi góc hành lang (để khỏi bị lạc đường). Mỗi
năm có hơn 500.000 người mua vé xuống thăm hệ thống đường cống ngầm
Paris.
Tòa
nhà UNESCO (7 Place de Fontenay), khánh thành năm 1958, là trụ sở của
cơ quan giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc tại Pháp. Đây
là một kiến trúc tượng tiêu biểu của thập niên 1950 với những đường nét
thẳng, không có gì đặc sắc, nhưng nội thất tòa nhà được trang trí rất
đẹp với những tác phẩm nổi tiếng của Picasso, Miró và Henry Moore.
Trường
quân sự, L’École militaire (1 Place Joffre), do kiến trúc sư Jacques
Ange Gabriel xây dựng từ 1751 đến 1773, dưới thời vua Louis XIV, để huấn
luyện 500 người trưởng giả nghèo. Nhà trường đã bắt đầu nhận khóa sinh
năm 1753, Napoléon Bonaparte tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự năm
1875.
Công
viên Champs de Mars trước kia là một bãi đất trống trước trường quân sự
được dùng làm nơi thao dượt. Sau cuộc cách mạng Pháp, để kỷ niệm một
năm ngày chiếm nhà tù Bastille, hơn 25.000 người đã được huy động đến
dọn dẹp để ăn mừng ngày 14-7-1790, thời gian sau đó trở thành sân đua
ngựa. Từ 1889 trở đi, khu đất này được dùng làm nơi chứa vật liệu xây
dựng tháp Eiffel. Ngày nay là một bãi cỏ lớn, quang đãng và được cắt tỉa
cẩn thận để khách bộ hành có thể quan sát tháp Eiffel một cách toàn
diện.
Tháp
Eiffel là một kỳ quang của Paris và cả nước Pháp. Được thiết kế bởi kỹ
sư Gustave Eiffel, tháp được xây dựng từ ngày 28-1-1887 và hoàn tất năm
1889 để kịp thời tham gia vào cuộc Triễn Lãm Toàn Cầu (Exposition
universelle). Lúc đầu dự án này chỉ là một ý kiến điên rồ thách đố thiên
nhiên, không ngờ về sau khi thực hiện xong nó trở thành một kỳ quan.
Khi xây dựng tháp này, Gustave Eiffel chỉ muốn đánh dấu kỹ thuật xây
dựng bằng các thanh sắt của thế kỷ 20 chứ không nghĩ đến đến tính mỹ
thuật ; về sau với những cố gắng phi thường công trình này được nhìn
nhận như là một trong những kỳ quan của thế giới cận đại và được dùng
làm biểu tượng của Paris và nước Pháp. Để ghi công, tượng của Gustave
Eiffel (1832-1923), do điêu khắc gia Antoine Bourdelle tạc năm 1923,
được đặt ngay dưới chân cột.
Tháp Eiffel là một kỳ quang của Paris và cả nước Pháp.
Về
kỹ thuật đây là một tháp được xây dựng bằng những thanh sắt lớn đan xéo
chằng chịt với nhau để gió có thể xuyên qua, nặng 10.000 tấn với 2,5
triệu con tán, cao 318,7 m (kể cả antenne), với 1.665 bực cấp, cứ mỗi 7
năm phải dùng 50 tấn sơn chống rỉ để sơn lại. Dưới sức nóng và gió, đầu
ngọn tháp có thể bị nghiêng 18 cm. Bốn chân tháp, nằm ở bốn hướng Đông
Tây Nam Bắc, là những trụ sắt khổng lồ rộng 5 m dùng làm điểm tự để đưa
người và vật dụng lên đỉnh tháp. Tháp có ba tầng : tầng 1 cách mặt đất
57 m gồm 345 bực cấp ; tầng 2 cách mặt đất 105 m với 359 bậc cấp, được
nhà hàng Jules Vernes thuê để khách có thể vừa ăn vừa ngắm nhìn phong
cảnh Paris ; tầng 3 cách mặt đất 276 m, chỉ có thể lên bằng thang máy,
tầng này có thể chứa 800 người cùng một lúc, lúc trời quang đảng có thể
nhìn xa tới 40 km. Có hai cách di chuyển lên tháp : bằng chân và bằng
thang máy ; chân tháp phía Đông dành cho người lên tháp bằng chân, ba
góc còn lại là bằng thang máy có từ 1899 và vẫn còn tốt. Vào mùa hè, du
khách có thể phải xếp hàng chờ ít nhất hai giờ mới tới phiên được mua vé
lên tháp bằng chân hay bằng thang máy, vì mỗi năm có hơn 20 triệu người
lên tháp nhìn cảnh Paris.
Để
mừng ngày đầu năm 2000, thị trưởng thành phố Paris có sáng kiến trang
điểm tháp Eiffel bằng hệ thống đèn điện đếm lùi ngày chờ đón thiên niên
kỷ mới từ đầu năm 1998, đến ngày đầu tiên của năm 2000 con số sẽ là ngày
0. Trong đêm mở đầu thềm thế kỷ 21 và thiên niên kỷ thứ ba, dân chúng
Paris đã chứng kiến những tràng pháo bông rực rỡ quanh tháp Eiffel.
Có
một cảnh lạ là ngay cạnh Champs de Mars và tháp Eiffel là một ngôi làng
Thụy Sĩ. Gọi là làng nhưng thực ra là một dãy nhà đẹp đẽ, chạy dài suốt
đại lộ Suffren (quận 15), được trang trí như những ngôi nhà bên Thụy
Sĩ, các lan can được trồng hoa và ngoài cửa trang hoàng các vật dụng của
vùng núi Alpes (chuông đeo cổ bò, guốc gỗ…). Ngôi làng này do chính
phủ Thụy Sĩ xây dựng để tham dự cuộc Triển Lãm Toàn Cầu năm 1900, giới
thiệu sản phẩm của Thụy Sĩ, sau cuộc triển lãm này các căn nhà đó đươc
dùng làm nơi buôn bán hàng hóa Thụy Sĩ tại Paris.
Cách
đó không xa, về phía bờ sông, là một căn nhà được xây hoàn toàn bằng
gạch tráng men. Năm 1901, Jules Lavirotte, một kiến trúc sư không ngừng
phát kiến các kiểu nhà mới, quyết định biến căn nhà số 29 Avenue Rapp
của ông Bigot thành một công trình mỹ thuật. Mặt tiền được trang trí
bằng những viên gạch đủ màu với những hình tượng phụ nữ khỏa thân.
Lavirotte còn trang trí mặt tiền căn nhà số 3 Square Rapp cạnh đó và
khách sạn Céramic số 34 đường Wagram.
Khu Saint Germain des Prés (quận 6)
Saint
Germain des Prés không có nhiều di tích lịch sử nhưng nổi tiếng với
những quán cà phê, nơi tụ tập của những văn nhân nghệ sĩ, và các bảo
tàng nghệ thuật. Khu này cho đến hết thời kỳ Trung Cổ là những đồng cỏ
(như tên gọi của nó) dùng để chăn nuôi súc vật, thuộc quyền sở hữu của
Giáo hội Công giáo từ năm 555, và những buổi họp chợ trao đổi nông phẩm.
Chỉ từ sau thế kỷ 17, các vua Louis XIII và XIV nới rộng sang khu vực
này xây dựng nhà cửa để những nghệ nhân từ khắp Châu Âu được tuyển dụng
đến xây dựng dinh thự cho triều Bourbons. Mỗi chiều tối, sau khi làm
việc xong những nghệ nhân này thường vào các quán rượu giải trí và tán
ngẫu. Với thời gian những thói quen này trở thành một sinh hoạt văn hóa
mà không một văn nhân nghệ sĩ tên tuổi nào bỏ lỡ cơ hội. Ngày nay các
quán cà phê văn nghệ sĩ phần lớn đều nằm trên đại lộ Saint Germain, quận
6 (75006 Paris), dài 3 km ; vào mùa hè các quán này bày biện bàn ghế
trên lề đường đê khách ngắm nhìn người bộ hành qua lại. Đường Rue du
Dragon chật hẹp là nơi cư ngụ của các họa sĩ Bỉ và Victor Hugo trong thế
kỷ 19.
–
Quán Les Deux Magots (170 boulevard Saint Germain), nội thất được trang
trí bằng hai kỷ vật dùng làm nhãn hiệu buôn tơ và vải Trung Hoa năm
1875, là nơi các nhà thơ danh tiếng đến ngâm vịnh như Verlaine, Rimbaud
và Mallarmé cuối thế kỷ 19, sau đó là nơi gặp gỡ của những nghê sĩ nổi
tiếng như Picasso, Saint Exupéry, Hemingway, Jean Giraudoux, trong những
năm 1950 Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir đến đây viết mỗi ngày
hai giờ.
–
Quán cà phê Flore (172 boulevard Saint Germain), nội thất trang trí
bằng những bàn ghế màu đỏ, là nơi Jean-Paul Sartre và Simone de
Beauvoir, Albert Camus và Jacques Prévert thường xuyên đến trò chuyện.
–
Quán Lipp (151 boulevard Saint Germain) được thành lập từ cuối thế kỷ
19 là nơi gặp gỡ của những chính trị gia và văn nghệ sĩ trong những năm
1920.
–
Quán Le Procope (13 rue de l’Ancienne Comédie, mặt đường hiện nay vẫn
còn lát đá, gồ ghề và chật hẹp như thời Trung Cổ) khai trương năm 1686
bởi một người Ý gốc Sicile, Francesco Procopio dei Coltelli, để đón tiếp
những kịch tác gia Châu Âu đến trình diễn tại Paris cho giới hoàng gia,
sau đó trở thành nơi gặp gỡ của nhân vật lớn như Benjamin Franklin,
Voltaire, Napoléon Bonaparte ; được trùng tu lại năm 1989 quán này tiếp
tục là nơi gặp gỡ của những nhân vật tên tuổi.
Ngoài
ra còn hàng trăm quán cà phê khác cũng nổi tiếng không kém như Le
Levantin (có từ năm 1643) giữa đường Saint Jacques và Petit Pont, quán
Le Café d’Orsay có từ đầu thế kỷ 19, Le Café Voltaire nơi Ernest
Hemingway thường đến, La Rotonde và Le Dôme nơi Lénine và Trotsky bàn
chuyện thay đổi nước Nga, v.v… Cũng nên biết Lenin và Trotsky thường
xuyên la cà khắp các quán rượu ở tả ngạn sông Seine trong suốt thời kỳ
lưu vong.
Nhà
hát Odéon Théâtre de l’Europe (1 Place Paul Claudel), xây năm 1779 và
do cặp nghệ sĩ Marie-Joseph Peyre và Charles de Wailly thành lập năm
1782 dưới tên Comédie Française, là nơi trình diễn những vỡ kịch tân cổ
điển của thời đó, năm 1792 đoàn kịch hoàng gia dời về đây và đổi tên
thành nhà hát Odéon năm 1797. Bị cháy năm 1807, nhà hát này được Jean
François Chalgrin xây lại như cũ và trình diễn ca kịch cho tới ngày nay.
Tháng 5/1968, nhà hát này là nơi tụ tập của những sinh viên nổi loạn
chống lại chính phủ của tổng thống de Gaulle.
Bức
tượng Quatres parties du monde của Carpeaux, tạc từ 1867 đến 1872 mới
xong, bằng đồng đỏ với bốn người khỏa thân (hai nam và hai nữ) tượng
trương cho bốn châu nâng quả địa cầu với những đường kinh tuyến và vĩ
tuyến.
Nhà
ga Orsay là một dãy nhà đồ sộ được khánh thành ngày 14/7/1900 để đón
tiếp khách đi xe ngựa, năm 1978 được biến thành Musée d’Orsay (2 rue de
Bellechasse) trưng bày các tác phẩm danh tiếng của các trường phái hội
họa và điêu khắc của Pháp. Nổi tiếng là bức tượng Quatres parties du
monde của Carpeaux, tạc từ 1867 đến 1872 mới xong, bằng đồng đỏ với bốn
người khỏa thân (hai nam và hai nữ) tượng trương cho bốn châu năng quả
địa cầu với những đường kinh tuyến và vĩ tuyến.
Ngày
29/12/1857, họa sĩ Eugène Delacroix, thủ lãnh trường phái lãng mạn và
là người tiên phong trong trường phái dã thú (fauvisme), dọn đến căn nhà
số 6 rue Fustenberg và từ trần tại đây ngày 13/8/1863. Căn nhà này được
biến thành viện bảo tàng Delacroix năm 1952 trưng bày tất cả tác phẩm
của người họa sĩ quá cố.
Bảo
tàng Légion d’honneur et d’ordres de chevalerie, xây dựng năm 1782, sau
nhiều thăng trầm được Napoléon dùng làm bảo tàng năm 1802 trưng bày
những phần thưởng danh dự nhất cho những có công với nước Pháp.
Căn
nhà số 11 Quai de Conti, hoàn tất năm 1777, được vua Charles X biến
thành Viện bảo tàng Tiền Tệ năm 1827, trưng bày các loại tiền đúc và
tiền giấy cùng những loại huy chương danh giá nhất nước Pháp. Cũng trên
Quai Conti số 23 là Institut de France, xây dựng năm 1691, làm một trong
năm Hàn lâm viện của Pháp chứa đựng những tài liệu và văn kiện quan
trọng của Pháp.
Trường
Quốc gia cao đẳng Mỹ Thuật (École nationale supérieure des Beaux Arts,
14 rue Bonaparte), được thành lập 1884, là nơi đào tạo những nghệ sĩ
danh tiếng của Pháp và Châu êu.
Những
ai thích sưu tầm sách báo cổ thì nên đi dọc Quai Voltaire, từ số 15 đến
25, để vào tìm báu vật mơ ước của mình. Con đường này cũng là nơi cư
ngụ của những nghệ sĩ danh tiếng như Voltaire, Montherlant, Charles
Beaudelaire, Richard Wagner, Jean Sibélius, Oscar Wilde, Corot, James
Pradier…
Khu Latin (quận 5)
Latin
ở đây có nghĩa là học thức chứ không phải là tiếng La Tinh. Năm 1118,
sau khi bị đưổi khỏi tu viện Notre Dame, tu sĩ triết gia Abélard dẫn
theo ba ngàn học trò lên đồi Sainte Geneviève dạy học. Từ đó đến nay,
khu này tiếp tục giữ mãi truyền thống giáo dục với nhiều trường danh
tiếng, trong đó có trường Sorbonne nổi tiếng. Nổi bật nhất là nhà văn
miếu Le Panthéon, nơi gìn giữ thi hài những văn nhân, triết gia, bác học
danh tiếng nhất của nước Pháp. Buổi tối, nhất là dịp cuối tuần, khu
Latin là nơi sinh viên học sinh, thanh niên thiếu nữ tụ tập vui chơi,
xem phim, nghe nhạc và ăn uống trong hàng trăm quán ăn đủ mọi hương vị
từ Âu sang Á và Địa Trung Hải.
Khu
Latin ngày nay là nơi sinh viên học sinh, thanh niên thiếu nữ tụ tập
vui chơi với hàng trăm quán ăn đủ mọi hương vị từ Âu sang Á và Địa Trung
Hải.
Đường
Saint Jacques, một trong những con đường chính của khu Latin, là con
đường đầu tiên được xây dựng từ thời La Mã cách đây gần 2.000 năm, chạy
từ Đảo Thị Trấn sang bờ tả ngạn. Nhiều di tích thời gallo-romain còn lưu
lại dọc hai bên đường Saint Jacques, ngày nay là những trường đại học
và trung học nổi danh như đại học Luật Paris I, Paris 2, Y khoa, Collège
de France, các trường trung học Henri IV, Louis Le Grand, với các tiệm
sách và nhà xuất bản lớn nhỏ.
Khu
Latin còn được biết tới như là khu nổi loạn của các phong trào sinh
viên và trí thức ; các cuộc xuống đường chống đối của sinh viên học sinh
đều bắt đầu tại đây, quanh quảng trường Saint Michel. François Villon
có lẽ là ông tổ của các phong trào chống đối của sinh viên học sinh tại
Sorbonne từ thế kỷ 15. Ngày nay khu Latin gần như được trưởng giả hóa
với những cửa hàng sang trọng và các nhà hàng lớn nhưng không ai quên
đây là nơi xuất các cuộc bạo động của giới thanh niên, sinh viên như
phong trào vô sản La Commune de Paris năm 1871 với 50.000 người bị giết,
bị bắt và đi tù ; phong trào sinh viên học sinh năm 1968 dẫn đến sự sụp
đổ của chính quyền De Gaulle…
Đại
học La Sorbonne (4 rue des Ecoles) lúc đầu là một trường thần học do
Robert de Sorbon, một tu sĩ dòng Saint Louis, thành lập năm 1258 dành
cho sinh viên nghèo. Một năm sau, trường này trở thành phân khoa thần
học thuộc viện đại học Paris. Năm 1626, Richelieu, hiệu trưởng Sorbonne,
sửa sang và mở rộng thêm để đón tiếp nhiều sinh viên vào học hơn và xây
trong khuôn viên một giáo đường ; từ đó đến nay là trường đào tạo những
nhà tư tưởng lớn nhất của Pháp.
Năm
1530, vua François I, theo lời yêu cầu của nhà nhân văn học Guillaume
Budé, thành lập Collège royal de France nhằm tránh né chính sách giáo
dục của viện đại học Paris, được coi là quá giáo điều và bất dung, để
giảng dạy miễn phí quần chúng nghèo. Với thời gian trường này trở thành
trường đào tạo những nhân vật chính trị lớn của Pháp dưới tên Collège de
France (11 Place Marcelin-Berthelot), được vào giảng trường này là
những nhân vật tên tuổi thuộc Viện Hàn Lâm Pháp.
Đền
Panthéon (Place du Panthéon) được vua Louis XV đặt viên đá đầu tiên năm
1764 và hoàn tất năm 1790. Đây là một công trình khổng lồ, xây dựng
trên đồi Sainte Geneviève, pha trộn các yếu tố kiến trúc Gothic, Hy Lạp
và La Mã, với nóc nhà hình vòm cao 83 mét, sân thượng rộng rãi có thể
ngắm nhìn toàn cảnh Paris, phía trên cổng chính là những hình tượng chạm
trổ công phu tôn vinh văn học với 22 cột chống. Bên trong nền nhà lát
cẩm thạch, nhiều hành lang dài rộng với những cột chống vàng óng trang
trí bởi những tượng nhân vật được lưu giữ hài cốt. Đền Panthéon hiện lưu
giữ hài cốt của 72 nhà tư tưởng và bác học có nhiều công trạng nhất đối
với nước Pháp như Victor Hugo, Emile Zola, Jean-Jacques Rousseau,
Voltaire, Diderot, Pierre và Marie Curie, André Malraux, v.v… Hài cốt
đầu tiên được đưa vào Panthéon là của nhà tư tưởng Mirabeau, sau đó bị
Robespierre thời cách mạng Pháp năm 1789 vứt bỏ và thay thế bởi hài cốt
nhà báo Marat, nhưng hài cốt của ông này sau đó cũng bị cách mạng vứt bỏ
xuống cống.
Musée
de Cluny (6 Place Paul-Painlevé) bảo tồn và trưng bày nhiều di tích và
báu vật có từ thời La Mã và Trung Cổ, trong đó quí giá nhất là những
cuốn sách viết tay được trang hoàng tuyệt mỹ, những tấm thảm dệt từ thế
kỷ 15, cánh hoa hồng Bâle bằng vàng do điêu khắc gia Minucchio da Sienna
tặng giáo hoàng Jean XXII năm 1330. Trong sân bảo tàng Cluny còn lưu
vết những phòng tắm hơi (thermes) mà nóc nhà và các tượng thần bằng đất
nung gần như còn nguyên vẹn từ thời La Mã.
Bảo
tàng của Nha cảnh sát (1 bis rue des Carmes) trưng bày các loại vũ khí,
vật dụng giết người của những tội phạm và tù nhân nổi tiếng.
Giáo
đường Saint Lulien Le Pauvre (1 rue Saint Lulien le Pauvre) là một
trong những nhà thờ lâu đời nhất Paris, được xây từ năm 1165 và trở
thành văn phòng của viện đại học Paris, bị đóng cửa năm 1524 vì sinh
viên nổi loạn, được hoạt động lại từ thế kỷ 17 và trở thành nhà nguyện
của giới Công Giáo chính thống (orthodoxe bizantin) năm 1889.
Giáo
đường gothic Saint Séverin (1 rue des Prêtres Saint Séverin) được xây
dựng đầu thế kỷ 13, hoàn tất vào thế kỷ 16 và được tu sửa lại trong thế
kỷ 17.
Đại
lộ Saint Michel được xây dựng năm 1869 trên những di tích cổ có từ thời
La Mã, ngày nay là con đường của những tiệm sách, nhà xuất bản và các
tiệm bán áo quần sang trọng.
Quán cà phê Cluny (20 boulevard Saint Germain) là nơi tụ tập của những nhà văn và nhà tư tưởng lớn của Pháp.
Khu Luxembourg (quận 5 và 6)
Không
một người Parisien nào không ao ước có căn nhà bên cạnh khu vườn
Luxembourg, đây là một khu yên tịnh, mát mẽ và lãng mạn được xây dựng
trên vết tích của một lâu đài, lâu đài Vauvert.
Lâu
đài Vauvert được xây dựng trong hai thế kỷ 11 và 12 nhưng quá xấu đến
nỗi vua Philippe Auguste không muốn kết nạp vào lãnh địa của mình
(Paris). Tin đồn lâu đài Vauvert có ma lan rộng khắp nơi chỉ các tu sĩ
Công giáo mới dám vào đó sinh sống và thành lập tu viện. Tu viện bị phá
hủy dưới thời Cách mạng Pháp 1789 và đất đai quanh tu viện bị tịch thu
để biến thành một khu vườn lớn quanh lâu đài của hoàng hậu Marie de
Médicis (1573-1642), trong thời cách mạng trở thành nơi giam giữ những
người chống đối cho đến cuối thế kỷ 18.
Thượng
viện Pháp (Sénat) trước kia là một lâu đài được vua Henri IV giao cho
kiến trúc sư Salomon de Brosse vẽ kiểu và xây dựng riêng cho vợ là hoàng
hậu Marie de Médicis, người Ý, do đó cấu trúc của lâu đài mang nặng ảnh
hưởng Ý, chung quanh có nhiều hồ chứa nước nhỏ nằm giữa các đường mòn
rợp bóng mát. Vua Louis XIV (1643-1715) chọn lâu đài này dùng làm nơi
nuôi dưỡng con cái vì sự yên tịnh của nó. Trong thời cách mạng, lâu đài
này bị tịch thu và biến thành một trong những nhà giam lớn nhất Paris
thời đó ; trong những năm 1795-1999 trở thành nơi hội họp của chính phủ ;
trong đệ nhị thế chiến là văn phòng tổng tham mưu không lực (Luftwaffe)
Đức và từ 1958 trở đi chính quyền de Gaulle chọn làm Thượng viện Pháp
(15 rue de Vaugirard, quận 6).
Quanh
Thượng viện là vườn Luxembourg (dọc đại lộ Saint Michel), khu vườn được
đông người lui tới nhất tại Paris. Người ta đến đây có lẽ để chiêm ngắm
những bức tượng điêu khắc đẹp nhất Paris và để tìm sự yên tĩnh đối với
người già. Vào mùa nóng, trẻ con vào đây đùa giỡn quanh bễ nước lớn hình
bát giác và xem kịch guignol (hình nộm), sinh viên các đại học kế cận
tạc vào nghỉ ngơi giữa trưa. Vườn Luxembourg còn là nơi hành hương của
những những người yêu nhau lãng mạn hóa cuộc tình.
Nhưng
Luxembourg chỉ thật sự đẹp vào mùa thu. Dưới ánh nắng vàng vọt cuối
ngày, lá vàng rơi rớt trên khắp lối đi, nhiều như những lời tình tự rót
vào tai người yêu. Những đôi tình nhân vào đây quấn quít bên nhau như
muốn kéo dài những giây phút thần tiên trong một không gian thơ mộng.
Vườn Luxembourg là thiên đàng của những người yêu nhau và là những trang
nhật ký đẹp nhất của những chuyện tình.
Nhưng cuộc tình nào cũng có hồi phải tan, đó là nỗi oan khiên của đời người.
Vườn Luxembourg đẹp và lãng mạn nhất vào mùa thu.
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng, khi về lại Việt Nam, không ngừng tưởng nhớ “người em mắt nâu tóc vàng sợi nhỏ” :
Mùa thu Paris trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ, hẹn em quán nhỏ
Rượu rưng rưng ly đỏ tràn chề
Mùa thu đêm mưa phố cũ hè xưa
Công viên lá đổ, công viên lá đổ
Chờ mong em gắng khổ từng giờ !
Mùa thu âm thầm bên Vườn Lục Xâm
Ngồi quen ghế đá, ngồi quen ghế đá
Không em ôi buốt giá từ tâm…
Mùa Thu Paris, thơ Cung Trầm Tưởng (1958), nhạc Phạm Duy, tiếng hát Hà Thanh
Nhạc sĩ quá cố Phạm Trọng Cầu cũng không thua, anh đau khổ nhắc lại vết thương lòng khi mất dấu người tình :
Ngày em đi
Nghe chơi vơi não nề
Qua vườn Luxembourg
Sương rơi trên phố mờ
Buồn này ai có mua…
Em ra đi mùa thu (1960), thơ và nhạc Phạm Trọng Cầu, tiếng hát Sĩ Phú
Jardin des Plantes (quận 5)
Gọi
là Jardin des Plantes (Vườn Cây) vì khoảng cây xanh trong khu vực này
chiếm một diện tích khá đáng kể bên tả ngạn sông Seine. Nhưng đặc tính
nổi bậc của khu này là sự yên tịnh với những di tích cổ thời La Mã
(gallo-romain) được tái tạo lại và viện bảo tàng thiên nhiên.
Năm
1626, vua Louis XIII nẩy sáng kiến lập một khu vườn cạnh lâu đài của
mình vừa dùng để dạo mát vừa trồng cây thuốc. Hai vị y sĩ hoàng gia,
Jean Héroard và Guy de la Brosse, được giao trách nhiệm xây dựng Jardin
royal des plantes médicinales (vườn thượng uyển cây thuốc) trong phố
Saint Victor, lúc đó rất ít cư dân. Vị vua kế tiếp, Louis XIV
(1643-1715) tiếp tục nuôi dưỡng cây cối trong vườn và cho xây thêm một
bệnh viện ở khu vực kế bên. Với thời gian, năm 1640, những gia đình
trưởng giả đến dựng nhà quanh khu vườn, trước để có cơ hội tiếp xúc với
hoàng tộc sau để được chữa bệnh khi cần. Nhưng số người nghèo làm việc
trong một xưởng sản xuất muối diêm (kali nitrat hay salpêtre) gần đó bị
bệnh quá đông nên năm 1654 nhà vua đổi thành “bệnh viện đa khoa chữa trị
người nghèo”, từ đó có tên là Hôpital de la Salpêtrière (47, boulevard
de l’Hôpital, quận 13) và giao cho Libéral Bruant tân trang lại bệnh
viện với một ngôi thánh đường hình chữ thập Hy Lạp và một nóc chuông
mười cạnh do giáo sĩ Bossuet quản lý.
Từ
1739 đến 1788, bá tước Buffon, tên thật là Georges Louis Leclerc, mở
rộng thêm diện tích khu vườn với 12 ngành nghiên cứu sự tiến hóa của vạn
vật, đặc biệt là thuyết tiến hóa của Darwin. Nhưng sang thời cách mạng
Pháp (1789), Henri Bernadin de Saint Pierre biến khu này thành khu giam
giữ các thú lạ tịch thu tại điện Versailles và các đoàn nhảy múa sơn lâm
và tồn tại cho tới năm 1870. Năm 1793, các đệ tử của Buffon đổi tên khu
vườn thành Muséum national d’histoire naturelle năm 1793 và xây thêm
một khu nuôi dưỡng côn trùng (cửa vào ở số 57 rue Cuvier). Viện Bảo Tàng
Lịch Sử Vạn Vật này được phân chia thành bốn lãnh vực khác nhau : cổ
sinh vật học với gần một triệu hóa thạch ; giải phẫu học đối chiếu từ
lúc phát sinh các loài động vật có xương sống đến ngày nay ; cổ thực vật
học ghi lại các loại thảo mộc xuất hiện cách đây hai tỷ năm ; và khoáng
vật học trưng bày các loại đá quí và lạ mà loài người biết được.
Năm
1870 Paris bị quân Đức chiếm đóng, nạn đói thúc đẩy dân chúng tràn vào
khu vườn này bắt hết các súc vật ăn thịt . Phải chờ tới năm 1889 vườn
bách thú mới được xây dựng lại với một khu hành lang rộng lớn trưng bày
các loài thú hiếm bằng rơm hay các bộ xương được tái tạo lại. Năm 1994
hành lang này biến thành Grande galerie de l’Evolution, Đại Hành Lang
Tiến Hóa thuộc Viện Bảo Tàng Lịch Sử Vạn Vật (số 2 rue Buffon), trưng
bày nhiều bộ xương các động vật đã biến mất như khủng long hay những
động vật đang bị đe dọa biến mất như cá voi, một số chim và thú rừng.
Năm
1938 người ta trồng thêm nhiều loại thảo mộc hiếm miền núi và ôn đới
(2.000 loại cây khác nhau) mang từ khắp nơi về, trong đó có một cây đại
tùng có tuổi thọ trên 450 năm mang từ Lebanon vầo trồng năm 1630, và xây
một nhà kiến trong khuôn viên khu vườn trồng các loại cây nhiệt đới với
hơn 2.600 loại.
Nhu
cầu mở rộng khu vườn từ đầu thế kỷ thứ 18 đòi hỏi một nguồn nhân lực
quan trọng ; quần chúng từ khắp nơi được tuyển vào đây làm việc và họ
thành lập một khu xóm bình dân nằm đối diện với khu vườn, gọi là xóm
Mouffetard, trong thực tế xóm này nằm giữa hai đường Mouffetard và
Monge.
Đường
Mouffetard có từ thời La Mã, đó là một đoạn đường nối liền Lutèce
(Paris) với Roma (La Mã), nhà cửa hai bên đường thời đó được dùng làm
nơi giam giữ nô lệ và giác đấu gốc Châu Phi, và tiếp tục tồn tại trong
thời Trung Cổ. Mặt đường lát đá hoa cương chạy từ đồi Sainte Geneviève
xuống khu chợ trời xưa nhất Paris, ngày nay do thương nhân bán lẻ hoa
quả và tạp hóa gốc Maghrebin (Bắc Phi) nắm giữ. Năm 1671 hoàng hậu Marie
de Médicis cho xây một bễ nước ở giữa con đường, Fontaine du Pot de
fer, để dân chúng lấy nước nấu ăn. Đầu đường Mouffetard là Place de la
Contrescarpe, nơi qui tụ những người ăn không ngồi rồi trong các quán cà
phê bình dân tán ngẫu. Cuối đường là một giáo đường xưa được xây cất
giữa thế kỷ 15 và hoàn tất năm 1655, mang tên Chapelle Saint Médard (141
rue Mouffetard) ; giáo đường này được kiến trúc sư Petit Radel tu bổ và
nới rộng năm 1784 bằng cách nâng các cột chống chính ở giữa để có một
nóc chuông cao hơn.
Đường
Monge không có gì đặc biệt, đây là một khu phố dành cho người lao động
và buôn bán. Những người Việt đầu tiên đến Pháp từ đầu thế kỷ 20 cho tới
1954 đa số đều đã một lần cư ngụ tại đây trước khi dọn sang nơi khác ;
chính quyền Hà Nội cũng sở hữu một khu nhà dành cho sinh viên từ Việt
Nam đến Paris du học. Giữa đường Monge và Geoffroy Saint Hilaire là một
khu phố sang trọng dành cho các gia đình khá giả vì rất yên tịnh.
Phía
trên khu xóm giàu nghèo lẫn lộn này (cạnh khu Latin) là một đấu trường
thời La Mã, Arène de Lutèce (rue de Navarre), được xây dựng từ cuối thế
kỷ thứ nhất sau công nguyên với 15.000 chỗ ngồi và 35 hàng ghế. Ngày nay
chỉ còn còn lưu lại vết tích những hàng ghế đá, chuồng thú dữ và phòng
nghỉ ngơi của người giác đấu bên cạnh nhà cửa của dân chúng. Đấu trường
này bị tàn phá trong thế kỷ 3 do nhu cầu cần đá xây thành quanh Đảo Thị
Trấn chống lại các cuộc tấn công của quân Celt đến từ phương Bắc. Đấu
trường này sau đó biến thành nơi chôn cất nạn nhân trong các cuộc chiến
và rơi vào quên lãng, nó chỉ được khám phá lại khi nhu cầu xây dựng nhà
cửa gia tăng. Năm 1869 đang lúc đào xới làm móng xây dựng nhà trên đường
Monge người ta khám phá ra nhiều hầm mộ chôn cất người chết và di tích
giác đấu trường, chính quyền thành phố liền đình chỉ mọi công tác xây
dựng nhưng vẫn chưa biết phải làm gì. Phải đợi đến năm 1883 khi văn hào
Victor Hugo khởi xướng chương trình phục sinh di tích, công tác này kéo
dài trong 25 và chỉ chấm dứt vào năm 1918.
Đầu
đường Geoffroy Saint Hilaire có một bễ nước, Fontaine de Cuvier, được
xây dựng năm 1840 gắn chìm vào một bức tường ; đây là một công trình
kiến trúc tuyệt mỹ với hình một phụ nữ khỏa thân ngồi cạnh con sư tử và
nhiều thú dữ khác của Châu Phi do điêu khắc gia Jean-Jacques Feuchère
sáng tác. Cuối đường là một thánh đường Hồi Giáo : Institut musulman de
la grande Mosquée de Paris (Place du Puits de l’Ermite) được xây dựng từ
1922 đến 1926, do các kiến trúc sư Heubès, Fournez và Matouf thực hiện,
với một tháp cao 33 m. Trước thánh đường là một dãy nhà dùng làm nơi
tiếp khách thập phương gồm một quán trà và một nhà hàng ả rập. Phòng đọc
kinh được trang hoàng rất công phu với những mô-típ hình học trên các
cột chống, vách tường và trần nhà. Sâu vào phía trong gồm có phòng đọc
sách, phòng giảng giáo lý và nhiều phòng tắm hơi (hammam), tất cả nằm
chung quanh một sân vuông ở giữa.
Dọc
tả ngạn sông Seine là một tòa nhà đồ sộ, với lối kiến trúc tân kỳ do
kiến trúc sư Jean Nouvel vẽ kiểu, là Institut du monde arabe (cổng chính
ở số 1, rue des Fossés Saint Bernard). Viện Thế Giới ả Rập này do 20
quốc gia nói tiếng ả rập xây dựng năm 1980 nhằm trưng bày và trao đổi
văn hóa với phương Tây. Viện có ba không gian khác nhau gồm chín tầng :
một thư viện với hàng ngàn tác phẩm, một bảo tàng viện trưng bày nét độc
đáo của các nền văn minh ả rập từ thế kỷ 7 đến ngày nay và một khu
thính thị rộng lớn để nghe và nhìn những nền văn hóa ả rập khác nhau
trên bờ Địa Trung Hải. Nội thất tòa nhà được rọi sáng bởi những 1.600
tấm kim loại độc đáo, mỗi tấm là một công trình kỹ thuật độc đáo với một
con mắt lớn và 21 con mắt nhỏ bằng kim loại tự động mở và khép tùy theo
luồng ánh sáng mặt trời nhận được. Mặt phía Nam là lối kiến trúc cổ
kiểu moucharabieh (các bao lơn được bao phủ bởi một vòng rào bằng gỗ để
che ánh sáng và những đôi mắt tò mò từ bên ngoài).
Kế
bên là Viện đại học Jussieu gồm hai trường : Paris VI và VII. Đại học
Paris VI nổi tiếng với các phân khoa nghiên cứu và khoa học thực nghiệm,
và đại học Paris VII giảng dạy về ngôn ngữ, các nền văn minh Châu Á và
con người. Khuôn viên của viện đại học này rất rộng (10.000 m2) với
những ngôi nhà hình các hạt nhân nguyên tử nối liền với nhau ; ở giữa
viện là một tòa nhà cao chọc trời với hàng trăm lớp học. Sinh viên theo
học tại đây đang phản đối về chất amiant dùng để cách nhiêt có thể gây
bệnh ung thư. Đại học Paris VI có một khu vực dành riêng (lầu 25) để
triển lãm bộ sưu tầm gồm 700 viên đá quí khác nhau được thu thập từ khắp
nơi trên thế giới.
Xưởng
dệt hoàng gia tọa lạc tại số 42 avenue des Gobelins, quận 13, là xưởng
dệt lâu đời nhất còn tồn tại ở Paris. Được Jean Gobelin thành lập từ năm
1440, xưởng dệt được vua Henri IV tân trang lại năm 1601 và dưới thời
vua Louis XIV là trung tâm sản xuất thảm treo tường và sàn nhà của hoàng
gia, nhất là tại điện Versailles. Năm 1937 xưởng này sát nhập vào Viện
tài sản quốc gia và mở cho công chung vào xem.
Xa
hơn về phía Đông Nam là thư viện quốc gia, Bibliothèque National de
France – Tolbiac (Quai François Mauriac, quận 13), hay Bibliothèque
Tolbiac – François Mitterrand. Đây là một công trình kiến trúc tân kỳ,
do kiến trúc sư Dominique Perrault vẽ kiểu, nổi bật trên tả ngạn sông
Seine với bốn cao ốc hình quyển sách mở ở bốn hướng dùng để chứa sách và
hai phòng đọc gồm 1.600 chỗ ngồi nhìn ra vườn cây nhân tạo dưới mặt
đất. Cũng nên biết hệ thống thư viện quốc gia Pháp tàng trữ trên 13
triệu sách và ấn phẩm, 250.000 sách viết tay, 350.000 tựa báo, khoảng 12
triệu tranh in tay, hình ảnh và bích chương, hơn 80O.000 bản đồ đủ
loại, hai triệu nhạc phẩm, một triệu băng dĩa, hàng chục triệu băng
video và CDrom, 500.000 loại tiền và huy chương… phân bổ trong bốn địa
điểm : Richelieu (quận 1), Tolbiac – François Mitterrand (quận 13),
Arsenal và Musée de l’Opéra (quận 9). Thư viện François Mitterrand, xây
dựng năm 1989 và khánh thành năm 1995, chứa 10 triệu ấn phẩm (trong đó
200.000 thuộc loại hiếm có và 800.000 có thể tham khảo tại chỗ), 76.000
vi phim, 950.000 vi phiếu, trên 100.000 tác phẩm đánh số và trên một
triệu băng, dĩa âm thành và hình ảnh đủ loại.
Tthư
viện quốc gia, Bibliothèque National de France – Tolbiac (Quai François
Mauriac, quận 13), hay Bibliothèque Tolbiac – François Mitterrand.
Đường
xe điện ngầm số 14, Météor, vừa được khánh thành năm 1998, nối liền khu
vực hữu ngạn, từ bến Madeleine, tới Bibliothèque François Mitterrand.
Đây là một trong hai đường xe điện ngầm mới đưa vào sử dụng hoàn toàn tự
động (không người lái). Cách thức trang trí trong hẹ thống đường xe
điện ngầm mới này rất là lộng lẫy, khách không bao giờ nhàm chán khi chờ
đón xe, mỗi 10 phút, vì hai bên vách được chiếu sáng làm nổi bật những
tác phẩm điêu khắc cận đại trưng bày trong các khung kiếng hay trên
trần.
Montparnasse (quận 14 và 15)
Montparnasse
ngày nay đã là một tên quen thuộc đối với dân Parisien. Theo truyện
thần thoại Hy Lạp, Parnasse (núi đá vôi, cao 2.457 m, cạnh thành phố
Delphes tại Hy Lạp) là một trong nhiều nơi cư ngụ của thần Apollon (con
của Zeus và Léto) và các nàng thơ (muses). Apollon là thần ánh sáng,
nghệ thuật và bói toán, được thờ tại Delphes. Ví khu vực này với núi
Parnasse (Montparnasse), những người đặt tên muốn xác nhận đây là một
khu văn thơ và nghệ thuật.
Vào
lúc thành lập thành phố Paris, đồi Montparnasse là nơi khái thác đá vôi
xây dựng thành phố Paris, về sau được dùng làm nơi quan sát thiên văn
vì sự trống trải của nó và nơi chôn cất người chết trong các hầm đá. Vào
cuối thế kỷ 18, do nhu cầu dân số gia tăng, thành phố Paris mở rộng
sang khu này, các nghĩa địa nhỏ được hốt cốt đi để xây dựng nhà cửa và
nhà ga xe lửa. Do sinh sau đẻ muốn, khu Montparnasse không có những di
tích lừng lẫy, nhưng bù lại đây là nơi dành riêng cho tao nhân mặc
khách, giới yêu văn thơ, âm nhạc và nghệ thuật từ thời Hoàng Kim (Belle
Epoque).
Di
tích lâu đời nhất tại đây là đài quan sát thiên văn Observatoire de
Paris (61, avenue de l’Observatoire, quận 14), được xây dựng năm 1667
theo lệnh vua Louis XIV để thiết lập bản đồ mặt trăng năm 1679. Không
ngờ sau đó, đài thiên văn này trở thành nơi hội họp của những nhà thiên
văn từ khắp thế giới đến trao đổi kiến thức. Chính tại nơi đây nhà thiên
văn Urbain Le Verrier đã khám phá sao Neptune năm 1846, bởi phương pháp
toán học.
Năm
1786, khi nhu cầu xây dựng nhà cửa phát triển, chính quyền Paris ra
lệnh di dời các bộ hài cốt trong nghĩa trang Cimetière des Innocents
(quận 1) có từ hơn ngàn năm trước về chôn trong các hầm đá quanh ba ngọn
đồi (Montparnasse, Montrouge va Montsouris). Số hài cốt đào tìm trong
nghĩa địa quá nhiều khiến công tác di dời hài cốt này kéo dài 15 tháng,
sau đó người ta quyết định xây một nhà mồ lưu giữ các bộ hài cốt dưới
đồi Montparnasse : Les Catacombes (1, Place Denfert Rochereau, quận 14),
rộng 11.000 m2, hiện lưu giữ trên sáu triệu xương cốt. Những người
không sợ ma có thể viếng thăm nghĩa địa ngầm này mỗi ngày, trừ những
nghỉ ngày lễ, từ 9 đến 11 giờ và từ 14 đến 16 giờ, để nhìn xương cốt và
sọ người chết từ hơn một ngàn năm qua.
Nghĩa
địa là một nơi ảm đạm và buồn bã nhưng Le Cimetière du Montparnasse (3
boulevard Edgar Quinet, quận 14) là một êthắng cảnhê vì mỗi năm nơi này
tiếp đón trên 500.000 du khách, chỉ thua nghĩa trang Père Lachaise đôi
chút vì diện tích nhỏ hơn. Những nhân vật lớn, văn hào và nghệ sĩ nổi
tiếng của Pháp phần lớn đều chọn nơi đây làm nơi an nghỉ cuối cùng. Sau
đây là một vài ngôi mộ cần đến thăm vì nét độc đáo của nó : gia đình
thống chế Pétain (riêng ông Pétain được chôn trên đảo Yeu ngoài khơi Đại
tây Dương), nhà văn Guy de Maupassant (mất năm 1893), viên sĩ quan gốc
Do Thái Alfred Dreyfus, nhà điêu khắc Frédéric Auguste Bartholdi (người
tạc bức tượng Nữ Thần Tự Do ở New York năm 1886), André Citroen (người
sáng lập hãng xe mang tên ông năm 1919), Charles Pigeon (nhà phát minh
và kỹ nghệ gia thời đại Hoàng Kim), nhà điêu khắc Brancusi, nhà văn
Charles Augustin Sainte Beuve, nhà dương cầm Camille Saint Saens, nhạc
sĩ Serge Gainsbourg, vợ chồng triết gia Jean Paul Sartre và Simone de
Beauvoir, nữ tài tử Mỹ Jean Seberg, nhà thơ Charles Beaudelaire, nhà
nhiếp ảnh Mỹ Man Ray, nhà thơ Tristan Tzara, nhà điêu khắc Henri
Laurens, nhà văn Samuel Beckett, v.v… Du khách sẽ tìm thấy nơi yên sự
yên tịnh và nên đứng vài phút trước mỗi ngôi mộ để nhìn những tác phẩm
điêu khắc độc nhất vô nhị. ở giữa nghĩa trang là bức tượng bằng đồng Le
Génie du sommeil éternel (thiên thần của giấc ngủ ngàn thu), bên cạnh đó
là một tháp tròn, vết tích của một cối xay gió còn sót lại từ thế kỷ
14.
Mộ gia đình Charles Pigeon được chọn là một trong những ngôi mộ đẹp nhất trong Nghĩa trang Montparnasse
Trở
về thế giới người sống, Montparnasse là nơi tụ tập của giới văn nghệ sĩ
trong các hàng quán, tương tự như khu Saint Germain des Prés nhưng đặc
biệt là của giới điêu khắc, hội họa, kịch tác và triết gia. Các nhà văn
nhà thơ Apollinaire, Max Jacob, Henry Miller đều đã một lần cư ngụ trong
khu này. Xưởng làm việc của các họa sĩ Picasso, Modigliani, Miró, Max
Ernst, Giacometti, Kandinski và nhiếp ảnh gia Eugène Atget nằm dọc con
đường Campagne Première (quận 14). Rạp ca kịch Théâtre de Montparnasse
(31, rue de la Gaité, quận 14) hiện nay vẫn giữ nguyên những trang trí
có từ thời Hoàng Kim (Belle Epoque).
Khung
cảng sang trọng và ấm cúng của nhà hàng La Coupole (102, boulevard du
Montparnasse, quận 14) là nơi gặp gỡ của các triết gia Georges Simenon,
Jean Paul Sartre, Joséphine Baker, nhà điện ảnh Roman Polanski… Căn
phòng rộng lớn chính giữa trưng bày trên 39 tác phẩm của của các họa sĩ
nổi tiếng như Chagall, Brancusi, v.v… Ngược lại, khung cảnh bình dân
của quán rượu La Closerie des Lilas (71, boulevard du Montparnasse, quận
14) là nơi hội họp của những nhà văn, nhà thơ Verlaine, André Breton,
Strinberg, Hemingway… Lénine và Trotsky thường hay la cà ở quán cà phê
Le Dôme để bàn chuyện lật đổ Nga Hoàng Nicolas II.
Khu
Montparnasse có ba bảo tàng viện nổi tiếng. Musée Zadkine (199 bis, rue
d’Assas, quận 6) trưng bày 300 tác phẩm của điêu khắc gia người Nga
Ossip Zadkine sáng tác từ 1928 đến 1967. Musée Antoine Bourdelle (16,
rue Antoine Bourdelle, quận 15) trưng bày trên 900 tác phẩm của điêu
khắc gia Antoine Bourdelle, người phụ tác của điêu khắc gia Rodin, từ
1884 đến 1949. Musée de la Poste (34, boulevard de Vaugirard, quận 15)
gồm 15 phòng giới thiệu lịch sử ngành bưu điện và các bộ sưu tầm tem thư
của Pháp.
Do
không có di tích xưa, Montparnasse được biết đến với hai kiến trúc mới :
một nhà chọc trời và một nhà ga tân kỳ. Nếu so với các nhà chọc trời
tại New York hay Chicago, La tour Montparnasse (Place Raoul Dautry, quận
14) sẽ không thấm vào đây, nhưng tại Châu Âu đây là công trình cách
mạng vì người Pháp êsợê ở trên lầu cao. La tour Montparnasse được hoàng
thành năm 1973, cao 200 m, dựng trên 56 cột bê tông chôn dưới mặt đất 62
m, 56 tầng với một sân thượng có thế quan sát xa tới 10 cây số bằng mắt
trần. Nhà ga Montparnasse được tân trang lại để đón nhận những đoàn xe
lửa tốc hành TGV Atlantique đời thứ II (màu xanh dương, tốc độ trung
bình 350 km/giờ) đưa khách từ vùng Bretagne, miền Tây nước Pháp, vào
Paris. Vòm nhà ga do nhà trang trí Victor Vasarely trang hoàng một cách
tranh nhã và tân kỳ.
Viện
Pasteur (25, rue du docteur Roux, quận 15) được xây dựng từ 1887 đến
1889 bởi bác sĩ Louis Pasteur, người đã phát minh ra cách khữ trùng sữa
và thuốc chích ngừa các bệnh dại, bệnh than. Ngày nay viện nay là trung
tâm nghiên cứu nổi tiếng nhất thế giới về các loại bệnh khó trị như
AIDS. Trong viện này có một bảo tàng lưu trữ căn phòng thử nghiệm và
phòng ngủ của bác sĩ Pasteur, thi hài của ông cùng bác sĩ Roux, người
phát minh ra ênước biển (sérum), được chôn trong ngôi giáo đường trong
viện.
Công
viên André Citroen (Quai André Citroen, quận 5) nằm trên tả ngạn sông
Seine về phía Tây, cạnh hai công viên Les Invalides và Champs de Mars,
là nơi dạo mát của dân Parisien vào những ngày đẹp trời. Công viên này
được các nhà dựng cảnh Alain Provost và Gilles Clément và các kiến trúc
sư Patrick Berger, Jean Paul Viguier, François Jodry vẽ kiểu và tạo dựng
một cách mỹ thuật để khách bộ hành không nhằm chán vì cảnh vật thay đổi
liên tục theo từng bước chân và mặt nước.
Công
viên Montsouris (Boulevard Jordan, quận 14) được cảnh trí gia Adolphe
Alphand xây dựng theo kiểu Anh Quốc, từ 1865 đến 1878, với những cây cổ
thụ và thảm cỏ chạy thoai thoải xuống một hồ nước_.
Ngoài
ra phải kể thêm Cité universitaire (19-21, boulevard Jordan, quận 14)
là nơi cư ngụ của hơn 5.000 sinh viên từ khắp nơi trên thế giới đến
Paris học tập. Khu đại học này, được xây dựng trong thập niên 1929, gồm
37 cư xá tượng trưng 37 lối kiến trúc khác nhau trên thế giới.
Quartier chinois (quận 13)
Người
Pháp có một khuyết điểm lớn là không thể nào phân biệt ai là người Hoa,
người Việt, người Lào hay người Kampuchea ; họ gọi chung những người
xuất thân từ Đông Nam Á là Tàu (Chinois). Paris có hai nơi tập trung
đông đảo hàng quán của người Đông Nam Á : quận 13 và quận 10. Vì là nơi
tập trung đông nhất người gốc Châu Á, quận 13 có tên là Quartier
chinois.
Người
Việt và người Hoa đã có mặt tại Pháp từ lâu đời, từ đầu thế kỷ 20,
nhưng chỉ thực sự đông đảo kể từ sau 1975. Tại Paris, cho đến trước thập
niên 1960, cộng đồng người Hoa tập trung vào các khu Les Marais (quận
4) vào Belleville (quận 10) và cộng đồng người việt tại Maubert (quận
5), nhưng từ thập niên 1970 trở đi quận 13 trở thành nơi hội tụ đông đảo
của làn sóng người đến từ Đông Nam Á (Việt, Hoa, Lào và Khmer). Ngoài
ra cộng đồng người Hoa và Việt cũng có mặt tại các quận 9, 11 và 18.
Một góc Phố Tàu Paris 13 – Ảnh minh họa
Sự
hiện diện của người Châu Á tại quận 13 này cũng rất tình cờ. Chương
trình chỉnh trang thành phố Paris trong thập niên 1960 buộc phần lớn
người Châu Á sinh trú tại khu vực trung tâm (Belleville, Marais và
Maubert Mutualité) ra khỏi những khu nhà cũ nát để tái định cư ở vùng
ngoại ô. Cùng lúc đó, tại quận 13, chính quyền Paris vừa xây xong những
căn nhà chọc trời để cho thuê, nay là khu Olympiades, nhưng bị người
Pháp tẩy chay vì không quen ở nhà cao tầng, người Châu Á mới được vào
thuê. Cho đến cuối thập niên 1970, do làn sóng người Đông Dương tị nạn
nhập cư ồ ạt vào Paris, khu Olympiades này rất được chiếu cố : ở phía
Nam, trên cao và cạnh sông Seine, ba yếu tố địa lý này phù hợp với niềm
tin về địa linh của người Việt và Hoa. Từ đó xuất hiện cộng đồng người
Châu Á tại quận 13, sinh sống bằng nghề thương mại, đông nhất và lớn
nhất đối với Châu Âu chứ nếu so với các Chinatown tại Hoa Kỳ, các khu
này chẳng thấm vào đâu về sự sang trọng và đồ sộ.
Sinh
hoạt thương mại chính tập trung vào ngành ăn uống (44,1%), kế đến là
các các sinh hoạt buôn bán xuất nhập cảng và tạp hóa (37,4%), ngành dịch
vụ (18,5%), trong đó cộng đồng người Hoa nói tiếng Triều Châu từ
Kampuchea chiếm phần áp đảo. Nổi bật nhất là hai siêu thị hàng Châu Á :
Tang Frères (7 cửa tiệm trong Ile de France, trong đó 4 tại Marne La
Vallée, phía Đông Paris) và Paris Store (4 cửa tiệm, trong đó 3 tiệm ở
Marne La Vallée).
Phần
lớn các sinh hoạt thương mại của người Châu Á tại Paris tập trung quanh
hai tục giao thông chính : Avenue d’Ivry và Avenue de Choisy. Trên một
vài đại lộ khác (Avenue d’Italie, Boulevard Vincent Auriol, rue
Tolbiac…), các cửa tiệm ăn uống Việt và Hoa đông ngang nhau. Như tại
Đông Nam Á, các cửa tiệm của người Hoa nằm ở mặt tiền hay các nơi thuận
lợi cạnh các trục giao thông lớn, còn các tiệm của người Việt, Khmer và
Lào lùi vào các đường nhỏ hay trong hẻm. Đi dạo trong Khu Tàu quận 13
không khác gì đi dạo tại Chợ Lớn, ở đâu cũng thấy những cửa hiệu viết
chữ Hán thật lớn, bên cạnh đó là những cửa hiệu viết chữ Việt thật nhỏ.
Những
dịp lễ lớn, Tết Nguyên Đán hay Tết Trung Thu, sinh hoạt văn hóa hay
những cuộc biểu diễn múa lân ngoài đường của người Trung Hoa gây nhiều
chú ý nhất.
Nguyễn Văn Huy
(02/08/2024)