
Cái chết của một ý thức hệ độc đoán và lỗi thời không phải là bi kịch, mà là cơ hội để tái sinh. Giống như buổi rạng đông sau một đêm dài, ánh sáng của tự do có thể khiến người ta chói mắt, nhưng nó là ánh sáng duy nhất có thể cứu lấy một dân tộc.
Trần Khánh Ân
Sự cáo chung của một ý thức hệ
Không có một ý thức hệ nào có thể sống mãi với thời gian nếu nó quay lưng lại với sự thật và con người. Mọi học thuyết chính trị đều ra đời để trả lời cho một khủng hoảng của thời đại, nhưng cũng chính từ trong những giới hạn nội tại của mình mà nó tạo ra cuộc khủng hoảng kế tiếp. Đó là quy luật vận động của lịch sử, quy luật tự hủy của mọi hệ thống khép kín. Chủ nghĩa cộng sản từng xuất hiện như một lời hứa về bình đẳng, công bằng và giải phóng con người khỏi áp bức. Nhưng trải qua gần một thế kỷ, lý tưởng đó đã tự biến thành nghịch lý. Thay vì giải phóng con người, nó đã dựng lên một cơ chế thống trị dựa trên sợ hãi và kiểm soát ; thay vì kiến tạo công bằng, nó duy trì đặc quyền ; thay vì đem lại niềm tin, nó gieo rắc hoài nghi và tuyệt vọng.

Những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến sự cáo chung của những mảnh vụn còn sót lại của hệ thống ấy. Sự sụp đổ của chính quyền cộng sản tại Nepal sau bảy năm độc quyền cai trị chỉ là một dấu mốc trong chuỗi tan rã mang tính toàn cầu. Cảnh tượng các bộ trưởng bị lột áo và chạy trốn trong hỗn loạn là hình ảnh bi thảm nhưng trung thực về kết cục của một mô hình cai trị đã mất linh hồn. Trước đó, Sri Lanka cũng sụp đổ trong khủng hoảng năm 2022. Những sự kiện này không phải là những vụ sụp đổ riêng lẻ, mà là bằng chứng của một quá trình cáo chung lịch sử. Từ Châu Âu Đông sang Châu Á, chủ nghĩa cộng sản đã bị đào thải vì không còn khả năng tự điều chỉnh. Nó không thất bại vì sức mạnh bên ngoài, mà vì sự giả dối bên trong. Ngày nay, thế giới chỉ còn lại vài quốc gia vẫn cố gắng duy trì mô hình ấy, những “Tàn dư của một thời đại đã khép lại. Nhưng trong đó, Trung Quốc đang rơi vào khủng hoảng niềm tin, Cuba kiệt quệ, Triều Tiên bị cô lập, còn Lào và Campuchia chỉ tồn tại nhờ người khổng lồ bên cạnh. Không quốc gia nào có thể là minh chứng cho sự thành công của ý thức hệ này nữa.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam vốn từng được xem là học sinh giỏi của hệ thống, đang đối diện với một bước ngoặt sinh tử. Sự sụp đổ của Nepal và Sri Lanka không chỉ là tin thời sự, mà là lời cảnh báo cho tương lai. Những nhà lãnh đạo tại Việt Nam không thể không nhận thấy rằng chiếc đồng hồ của lịch sử đã điểm. Chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung, vấn đề còn lạ chỉ là thừa nhận. Không một hệ thống nào có thể tồn tại khi niềm tin bị xói mòn và niềm sợ hãi đã thay thế lý tưởng. Khi quyền lực chỉ còn biết dựa vào công an, khi những lời hứa chỉ còn là khẩu hiệu trống rỗng, khi người dân không còn tin vào sự công chính của thể chế, thì đó là dấu hiệu của sự cáo chung, dù bề ngoài vẫn còn lễ hội, cờ quạt và khẩu hiệu.
Nhìn rộng hơn, thế giới đang trải qua những chuyển động địa chính trị sâu sắc làm gia tốc tiến trình này. Hai cuộc xung đột lớn : Nga – Ukraine và Israel – Gaza không chỉ là những cuộc chiến tranh khu vực, mà là những đường ranh mới của lịch sử. Chúng bộc lộ sự kiệt quệ về tư tưởng và sự đổi chiều của thời đại, từ chủ nghĩa bành trướng sang chủ nghĩa nhân bản, từ độc quyền chân lý sang đối thoại và hợp tác.
Nước Nga, sau hai năm chiến tranh, đã tự đẩy mình vào ngõ cụt. Nền kinh tế sụp đổ, xã hội mệt mỏi, và giấc mộng phục hưng đế quốc đã hóa thành một bi kịch. Putin không chỉ làm kiệt quệ nước Nga, mà còn làm lung lay trụ cột tinh thần của toàn bộ khối cộng sản ít ỏi còn lại. Khi biểu tượng của quyền lực sụp đổ, toàn bộ cấu trúc niềm tin cũng theo đó mà rạn nứt.
Tại Trung Á, thế hệ trẻ đang nói tiếng Anh, tư duy theo mô hình phương Tây, và nhìn về tương lai không có bóng dáng Moskva. Điều đó chứng minh rằng sức mạnh của ý thức hệ không thể chống lại sức mạnh của thời đại. Một khi con người đã nhìn thấy ánh sáng tự do, họ không thể bị dẫn dắt trở lại bóng tối.
Song song đó, cuộc chiến Israel và Gaza buộc Hoa Kỳ phải thay đổi chính sách ngoại giao từng gây chia rẽ sâu sắc trong thế giới Hồi giáo. Khi Washington tuyên bố nhìn nhận quốc gia Palestine và yêu cầu Israel không sáp nhập Gaza, thế giới đã bước sang một trang mới. Động thái này không chỉ là điều chỉnh chiến lược, mà là sự thanh lọc về đạo lý. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, Mỹ đặt công lý lên trên lợi ích.
Sự thay đổi này có ý nghĩa lớn hơn những gì người ta tưởng. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, chính sự bất công trong chính sách Trung Đông của Mỹ đã khiến hơn hai tỷ người Hồi giáo giữ thái độ thù nghịch với phương Tây, và do đó, ít nhiều dung túng cho các chế độ độc tài. Khi lý do phẫn nộ ấy bị gỡ bỏ, các tàn dư độc tài mất đi một vùng đệm tinh thần cuối cùng. Trật tự thế giới đang tái cấu trúc, và những chế độ dựa trên sợ hãi, tuyên truyền và bạo lực đang bị đẩy ra rìa. Không còn khối liên minh nào có thể che chở họ. Không còn cuộc chiến ý thức hệ nào để họ dựa vào. Trong cơn chuyển động ấy, Việt Nam không thể là ngoại lệ.
Sự cáo chung của một ý thức hệ không chỉ là sự sụp đổ của một thể chế, mà là sự sụp đổ của một cách nghĩ. Nó chấm dứt một kỷ nguyên trong đó người ta tin rằng có thể nhân danh công lý để tước đoạt tự do, nhân danh tập thể để chà đạp cá nhân. Nhưng lịch sử không dung thứ cho sự ngụy biện. Khi một hệ thống tồn tại bằng dối trá, nó sẽ bị sự thật tiêu diệt.
Và sự thật ngày hôm nay là chủ nghĩa cộng sản đã hết vai trò lịch sử. Những người còn cố níu kéo nó chỉ đang kéo dài cơn hấp hối của chính mình.
Việt Nam trong cơn khủng hoảng toàn diện
Nếu như sự sụp đổ của Nepal hay Sri Lanka chỉ là những tiếng chuông báo tử cho một mô hình, thì tình trạng hiện nay tại Việt Nam lại là minh chứng cho giai đoạn cuối của nó. Tất cả các triệu chứng của một hệ thống đang tan rã đều đã hội tụ, đó là : khủng hoảng quyền lực, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng niềm tin.
Sau khi người đứng đầu chế độ lâm bệnh và rút khỏi vũ đài chính trị, quyền lực thực tế rơi vào tay một nhân vật vốn không được biết đến vì tầm nhìn, mà vì khả năng kiểm soát và trấn áp. Từ một người đại diện cho ngành cưỡng chế, Tô Lâm trở thành trung tâm quyền lực, nắm trong tay Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng là công cụ sinh sát của toàn bộ guồng máy. Từ đó, cấu trúc quyền lực vốn mong manh của hệ thống chuyển hẳn sang mô hình chuyên chế tập quyền, trong đó mọi quyết định chính trị đều xuất phát từ nỗi sợ bị lật đổ. Nhưng một chính quyền được duy trì bằng nỗi sợ hãi sẽ chỉ sinh ra thêm thù hận. Sự thanh trừng trong nội bộ đảng cộng sản những năm gần đây đã vượt xa mức thông thường. Hàng loạt cán bộ, quan chức, và cả những người từng là đồng chí bị loại bỏ, không phải vì sai phạm, mà vì bị xem là mối đe dọa tiềm tàng. Quyền lực tập trung càng cao, vòng nghi kỵ càng siết chặt. Những ai có năng lực hơn, có kiến thức hơn, đều lần lượt bị gạt sang bên lề. Hậu quả là một bộ máy cồng kềnh nhưng tê liệt. Những người có thể đưa ra ý kiến thì bị loại bỏ, những người còn lại thì không dám hành động. Chính sách tinh gọn bộ máy, vốn được ca ngợi như một bước cải cách hóa ra lại là con dao hai lưỡi, nó xóa bỏ hàng loạt cơ quan trung gian mà không thay thế bằng một cơ chế hiệu quả hơn. Hàng chục tỷ đô la ngân sách bị chi tiêu mà không tạo ra năng suất, trong khi guồng máy hành chính rơi vào hỗn loạn vì không ai dám làm gì vì không hiểu mình còn quyền hạn gì.
Không chỉ dừng lại ở bộ máy, sự lúng túng trong hoạch định kinh tế đã khiến Việt Nam đối diện với nguy cơ khủng hoảng toàn diện. Những chỉ tiêu tăng trưởng được đặt ra 8,5% vào năm 2025, trên 10% từ năm 2026 thể hiện một sự thiếu hiểu biết nghiêm trọng về kinh tế. Ngân hàng Thế giới dự báo mức tăng trưởng thực tế chỉ khoảng 6%, nhưng các nhà lãnh đạo đảng cộng sản vẫn chọn cách tự huyễn hoặc bằng những con số viển vông. Khi một chính quyền tin vào ảo tưởng của chính mình, đó là lúc sự thật bắt đầu mất giá trị.
Điều nguy hiểm hơn là sự phụ thuộc gần như tuyệt đối vào một tập đoàn tư nhân duy nhất Vin Group. Bằng cách gắn vận mệnh kinh tế quốc gia với vận mệnh của một công ty, Vin Group đã biến toàn bộ nền kinh tế thành con tin của thị trường chứng khoán. Khi bong bóng doanh nghiệp này vỡ, cả hệ thống tài chính có thể sụp đổ dây chuyền. Một quốc gia không thể được điều hành như một dự án kinh doanh, và càng không thể được cứu bằng những khẩu hiệu vươn mình. Đầu tư tư nhân trong nước đang chạm mức bằng không. Nhà đầu tư nước ngoài ngần ngại vì thiếu minh bạch và bất ổn chính trị. Thị trường nội địa bị bóp nghẹt bởi thuế, lệ phí, và sự tùy tiện của bộ máy hành chính. Trong khi đó, lãnh đạo vẫn tiếp tục nói về niềm tin và ổn định, như thể những khái niệm ấy có thể được tạo ra bằng nghị quyết. Nhưng nền kinh tế không sống bằng nghị quyết, nó sống bằng niềm tin thực, bằng sự an toàn của luật pháp và sự tôn trọng của nhà nước đối với người dân.
Tình trạng pháp trị suy thoái là biểu hiện rõ nhất của sự cáo chung này. Luật pháp lẽ ra phải là công cụ bảo vệ công lý, đã trở thành công cụ để bảo vệ quyền lực. Các vụ án chính trị được xử kín, bản án được viết sẵn. Quan tòa chỉ còn là người đọc lại quyết định của cấp trên. Nhà nước pháp trị chỉ còn là lớp sơn che giấu một hệ thống cai trị bằng bạo lực và đe dọa. Một khi công lý bị bóp méo, toàn bộ trật tự xã hội sẽ lung lay. Người dân mất lòng tin vào tòa án, doanh nghiệp mất lòng tin vào hợp đồng, và cả bộ máy hành chính mất lòng tin vào chính nó. Trong một xã hội như thế, mọi người đều nói dối để sinh tồn và đó là điểm khởi đầu của sự tan rã.
Đại hội 14 của Đảng cộng sản, chắc chắn sẽ là đại hội cuối cùng, không phải vì ai đó muốn chấm dứt, mà vì nó không còn có thể tiếp tục. Khi dân chủ trong nội bộ bị loại bỏ, khi hầu hết đại biểu đều do trung ương chỉ định, khi không còn thảo luận, chất vấn mà chỉ còn phục tùng, thì đại hội ấy không còn là sinh hoạt chính trị, đúng hơn phải gọi là một nghi lễ tiễn đưa.
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng mọi chế độ độc quyền đều tự hủy khi nó không còn khả năng thuyết phục người dân bằng lý tưởng. Bạo lực có thể duy trì quyền lực, nhưng không thể duy trì niềm tin. Một chính quyền có thể khiến người dân im lặng, nhưng không thể khiến họ tin tưởng. Và khi niềm tin đã mất, mọi khẩu hiệu đều trở nên lố bịch. Khủng hoảng hiện nay không chỉ là khủng hoảng về kinh tế hay chính trị, mà là khủng hoảng về đạo lý. Nó bắt nguồn từ sự đánh mất mục tiêu ban đầu của một cuộc cách mạng từng được nhân danh công bằng. Khi công bằng trở thành cái cớ để tước đoạt tự do, khi lý tưởng trở thành chiêu bài cho đặc quyền, thì đó không còn là cách mạng, mà là phản cách mạng.
Ở Việt Nam hôm nay, sự phản cách mạng ấy đang diễn ra trong hình thức trần trụi nhất : người ta nhân danh nhà nước để đàn áp nhân dân, nhân danh pháp luật để chà đạp công lý, nhân danh tổ quốc để bảo vệ quyền lợi của một nhóm nhỏ. Cái gọi là ổn định thực ra chỉ là sự im lặng của nỗi sợ, còn đồng thuận xã hội chỉ là sản phẩm của tuyên truyền. Nhưng lịch sử không bao giờ dừng lại vì nỗi sợ. Một khi xã hội đã chạm đến giới hạn của sự chịu đựng, sự thay đổi là tất yếu. Vấn đề không còn là liệu hệ thống có sụp đổ hay không, mà là nó sẽ sụp đổ như thế nào, trong hỗn loạn hay trong hoà bình.
Và câu trả lời ấy sẽ phụ thuộc vào khả năng của người Việt Nam, những người vẫn đang bị buộc phải im lặng, có dám cất tiếng nói để giành lại quyền làm chủ vận mệnh của mình hay không.
Sự cô lập của các tàn dư toàn trị
Thế giới đang bước qua một khúc quanh lịch sử. Không chỉ những mô hình cũ đang sụp đổ, mà cả trật tự tư tưởng vốn chi phối chính trị toàn cầu suốt gần một thế kỷ cũng đang được tái định hình. Chúng ta đang chứng kiến sự chuyển hóa âm thầm nhưng quyết liệt từ một thời đại của ý thức hệ sang một thời đại của lý tính và pháp trị.
Hai cuộc chiến lớn trong thập niên này : Nga – Ukraine và Israel – Gaza là hai lò phản ứng làm thay đổi cán cân đạo lý của thế giới. Chúng không chỉ vẽ lại biên giới địa chính trị, mà còn phơi bày bản chất thật của quyền lực và sự yếu kém của các chế độ toàn trị. Cuộc chiến Nga – Ukraine, về bản chất, là cuộc xung đột giữa một quá khứ đế quốc và một tương lai dân chủ. Khi đế quốc Nga phát động chiến tranh, họ tin rằng súng đạn và nỗi sợ vẫn đủ để khuất phục một dân tộc. Nhưng sau ba năm, thế giới đã chứng kiến điều ngược lại, đó là : nước Nga kiệt quệ, cô lập và bế tắc, trong khi Ukraine, dù tan hoang, vẫn trở thành biểu tượng của tinh thần tự do và tình cảm của thế giới.
Chiến tranh đã phơi bày sự thật rằng mô hình cai trị bằng quyền lực tuyệt đối không thể tạo ra sức mạnh bền vững. Một quốc gia được xây dựng trên dối trá và cưỡng chế sẽ không thể thắng nổi một dân tộc được dẫn dắt bởi lý tưởng và niềm tin. Cuộc chiến này không chỉ là thất bại của đế quốc Nga, mà còn là lời cảnh báo cho mọi chế độ đang cố duy trì quyền lực bằng nỗi sợ. Tác động của nó vượt xa chiến trường. Tại Trung Á, vùng từng là sân sau của nước Nga, thế hệ trẻ đang rời bỏ tiếng Nga, học tiếng Anh, và tìm về các giá trị dân chủ phương Tây. Đó không phải chỉ là sự thay đổi ngôn ngữ, mà là sự đổi hướng của ý thức : từ phục tùng sang khai sáng, từ sợ hãi sang tự chủ. Những biến chuyển ấy báo hiệu sự tan rã của một trật tự tinh thần cũ, và là tín hiệu cho một thời đại mới, nơi con người không còn chấp nhận bị cai trị bởi sự dối trá nhân danh ổn định.
Trong khi đó, ở Trung Đông, cuộc chiến Israel – Gaza đã đẩy Hoa Kỳ vào thế buộc phải thay đổi chính sách ngoại giao từng gây nhiều bất bình. Trước áp lực quốc tế và sự đòi hỏi công lý ngày càng mạnh mẽ, Washington đã công bố một chương trình hòa bình 20 điểm, trong đó có hai điều khoản mang tính bước ngoặt : Israel không được sáp nhập Gaza, và nước Mỹ chính thức nhìn nhận quốc gia Palestine. Sự kiện này, thoạt nhìn, có vẻ như một bước điều chỉnh chiến lược, nhưng thật ra là một cuộc cách mạng đạo lý trong chính sách đối ngoại của phương Tây. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, Mỹ thừa nhận rằng không một đồng minh nào, dù thân cận đến đâu, được phép đứng ngoài nguyên tắc công bằng. Tác động của sự thay đổi ấy mang tính toàn cầu. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, việc Mỹ ủng hộ Israel một cách tuyệt đối đã khiến thế giới Hồi giáo xa lánh phương Tây, và vô tình tạo không gian cho các chế độ độc tài khai thác sự phẫn nộ đó để duy trì vị thế. Khi nguyên nhân phẫn nộ ấy bị gỡ bỏ, các tàn dư của các chế độ độc tài mất đi một trong những nguồn hậu thuẫn tinh thần cuối cùng trên thế giới. Những chuyển dịch này cũng làm lung lay cấu trúc quyền lực của Trung Quốc, quốc gia được xem là trụ cột cuối cùng của hệ thống cộng sản. Sự suy yếu của Nga và sự cô lập về đạo lý của Bắc Kinh khiến mô hình phát triển đánh đổi không còn sức hấp dẫn. Những quốc gia từng ngả theo mô hình này giờ đang tìm đường quay lại với phương Tây, không phải vì bị ép buộc, mà vì họ nhìn thấy ở đó tương lai an toàn hơn cho dân tộc mình.
Thế giới đang thay đổi theo một quy luật giản dị nhưng không thể đảo ngược : chỉ có những xã hội dân chủ, pháp trị, và tôn trọng nhân phẩm mới có thể tồn tại trong thế kỷ XXI. Mọi mô hình cai trị dựa trên sợ hãi, bưng bít và tuyên truyền đều đã đi đến giới hạn tự nhiên của nó. Trong cơn thay đổi ấy, Việt Nam rơi vào một thế bị động và cô lập. Không còn khối anh em nào để dựa vào, không còn chiến hào ý thức hệ nào để núp bóng, và không còn lý do đạo lý nào để biện minh cho sự độc quyền quyền lực. Những khẩu hiệu trở nên sáo rỗng, bởi thế giới đang tiến lên còn họ thì dậm chân trong nỗi lo mất ghế.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà các giá trị phổ quát không còn là đặc quyền của phương Tây, mà là chuẩn mực chung của nhân loại. Và trong thế giới đó, không một chế độ toàn trị nào có thể tồn tại nếu tiếp tục đặt quyền lực lên trên con người. Khi các đế chế sụp đổ, điều họ mất trước tiên không phải là lãnh thổ, mà là niềm tin. Nga đang mất niềm tin của chính dân mình. Trung Quốc đang mất niềm tin của giới trẻ. Và đảng cộng sản Việt Nam đang mất niềm tin của cả xã hội. Một khi niềm tin ấy không thể phục hồi, mọi quyền lực sẽ trở nên rỗng ruột, dù bên ngoài vẫn còn cờ và khẩu hiệu. Cuộc đổi chiều của thế giới hôm nay chính là cơ hội cuối cùng để những quốc gia còn kẹt trong quá khứ tự cứu lấy mình. Bởi nếu không hòa vào trào lưu dân chủ toàn cầu, họ sẽ bị bỏ lại như những tàn dư lạc thời vừa nghèo đói, vừa cô độc, vừa vô nghĩa.

Con đường tất yếu của dân tộc Việt Nam
Một dân tộc không thể sống mãi trong sự lặp lại của sợ hãi. Lịch sử không dành chỗ cho những ai chỉ biết mãi ăn nằm với bóng tối. Việt Nam, sau hơn bảy thập kỷ bị trói buộc trong một mô hình đã cáo chung, đang đứng trước ngưỡng cửa của một kỷ nguyên của khai sáng chính trị và tái lập nhân phẩm con người. Những khủng hoảng chồng chất không chỉ là biểu hiện của một hệ thống sai lầm, mà còn là kết quả của một triết lý cai trị lỗi thời. Không thể vá víu một mô hình vốn được thiết kế để kiểm soát, chứ không phải để phát triển. Giống như không thể dùng lý thuyết của bóng tối để lý giải ánh sáng, cũng không thể dùng cơ chế của sợ hãi để tạo ra tự do.
Điều đất nước cần hôm nay không phải là cải cách trong khuôn khổ, mà là một khởi đầu mới trong tư tưởng. Một kỷ nguyên thứ hai, như cách nói của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, phải bắt đầu từ nhận thức rằng mọi giá trị chính trị đều phải quy về con người. Sự phát triển không thể đến từ ý thức hệ, mà chỉ có thể đến từ tự do. Sự công bằng không thể được ban phát bởi Nhà nước, mà chỉ có thể được bảo đảm bằng luật pháp độc lập. Và hòa giải dân tộc không thể là khẩu hiệu, mà phải là một quá trình tha thứ, nhìn lại và cùng nhau viết lại khế ước xã hội.
Nhiều người sợ rằng khi chế độ sụp đổ, Việt Nam sẽ rơi vào hỗn loạn. Nhưng lịch sử đã chứng minh điều ngược lại : hỗn loạn chỉ xảy ra khi người ta cố níu kéo cái cũ trong khi cái mới đã đến. Sự chuyển hóa dân chủ ở Đông Âu, ở Nam Phi, ở Đài Loan… đều bắt đầu từ những con người dám nói sự thật, dám nhìn thẳng vào hiện thực và dám tin rằng dân tộc mình có khả năng tự tổ chức, tự cai trị. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Vấn đề không nằm ở việc thay đổi ai, mà là thay đổi cái gì. Một thể chế có thể sụp đổ, nhưng nếu tư duy phục tùng vẫn còn, thì độc tài sẽ chỉ khoác áo mới. Do đó, cuộc cách mạng mà dân tộc ta cần không phải là một cuộc cách mạng bạo lực, mà là một cuộc khai sáng chính trị, mỗi người Việt Nam phải tự khai sáng chính mình : quyền lực chính trị không phải là đặc ân, mà là trách nhiệm ; tự do không phải là ân huệ, mà là bản chất của làm người.
Tinh thần “Khai sáng kỷ nguyên thứ hai” chính là lời kêu gọi đó. Nó không chống lại ai, mà chống lại sự dối trá. Nó không đòi hỏi hận thù, mà đòi hỏi lương tri. Nó không hướng tới trả thù, mà hướng tới xây dựng một nước Việt Nam mới : nơi những quyền công dân được tôn trọng, nhà nước bị ràng buộc bởi luật pháp, và chân lý không còn là độc quyền của một đảng chính trị. Một quốc gia tự do không phải là nơi không có bất đồng, mà là nơi bất đồng được bảo vệ. Nhà nước dân chủ không phải là nơi sản sinh những người giống nhau, mà là nơi phát sinh những con người khác nhau nhưng vẫn có thể sinh hoạt hài hòa và sống chung với nhau trong sự bao bọc của một nền luật pháp bao dung. Tự do không phải là vô trật tự, mà là trật tự được thiết lập từ sự đồng thuận và trách nhiệm.
Để đi tới đó, cần ba điều kiện nền tảng như Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề nghị :
Thứ nhất, phải giải phóng con người khỏi nỗi sợ. Không có tự do nào nảy nở trong tâm thức của người bị khuất phục. Việc chấm dứt cai trị bằng bạo lực và tuyên truyền là điều kiện tiên quyết của mọi tiến trình dân chủ.
Thứ hai, phải xây dựng một nền pháp trị thật sự, nơi luật pháp không phục vụ cho bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào, mà là khế ước của toàn dân. Pháp trị là hàng rào bảo vệ yếu nhân, là nền móng của niềm tin, là thước đo văn minh của quốc gia.
Thứ ba, phải trả tự do cho chính trị, trả lại cho chính trị phẩm giá của nó. Chính trị không phải là nghệ thuật giành giật quyền lực, mà là nghệ thuật cùng nhau chung sống, cùng nhau chia sẻ quyền quản trị đất nước qua những cuộc bầu cử tự do và trong sáng. Một nền chính trị vô đạo không thể tạo ra một xã hội đạo đức.
Việt Nam không thiếu người tài, không thiếu lòng yêu nước, chỉ thiếu một cơ chế biết tôn trọng con người và khuyến khích lương thiện. Khi những người có năng lực bị loại bỏ vì trung thực, khi những người cơ hội được thăng tiến vì biết luồn cúi, xã hội sẽ bị đảo lộn. Thế giới hôm nay đã mở ra cánh cửa cho Việt Nam. Các tàn dư cộng sản đang lần lượt sụp đổ, các dân tộc bị kìm hãm đang tìm lại tiếng nói. Không ai có thể cản được dòng chảy của tự do. Câu hỏi duy nhất là chúng ta muốn tham gia vào lịch sử với tư cách người chủ hay kẻ bị lôi đi ?
Cái chết của một ý thức hệ độc đoán và lỗi thời không phải là bi kịch, mà là cơ hội để tái sinh. Giống như buổi rạng đông sau một đêm dài, ánh sáng của tự do có thể khiến người ta chói mắt, nhưng nó là ánh sáng duy nhất có thể cứu lấy một dân tộc. Đã đến lúc người Việt Nam phải lựa chọn : hoặc tiếp tục ngủ trong an phận của quá khứ, hoặc đứng dậy để viết nên chương mới của lịch sử đời mình. Không ai có thể làm thay chúng ta điều đó. Và khi chúng ta dám bước qua nỗi sợ, dám tin vào nhau thì kỷ nguyên thứ hai của dân tộc sẽ khai sáng (mở ra).
Trần Khánh Ân
(12/11/2025)

