Cơ chế đan quyền (Tạ Dzu)

Theo Lý tiên sinh thì VN từng có giai đoạn dưới hai triều đại Trần và Lê đã từng thực hiện cơ chế đan quyền.

Hiện nay giới trí thức VN đang rất quan tâm đến thể chế chính trị cho VN tương lai; tuy nhiên, giới này cũng chỉ dựa vào thể chế tam quyền phân lập của phương Tây, một thể chế phân quyền lấy đảng phái làm nền tảng, tuy rất hiệu quả sau thời phong kiến. Nhưng lâu dài, nó gây ra tình trạng chung của phương Tây là cảnh đảng tranh giằng co nhau mà quốc dân không có quyền lực thực tế nào, ngoài quyền bầu cho ứng viên các đảng đưa ra. Lý tiên sinh chủ trương đảng phải là công đảng (ta có thể tạm xem xã hội công dân – civil society hiện nay là một hình thức “công đảng”, tức phục vụ nhu cầu của các thành viên và xã hội thay cho đảng phái).

Dĩ nhiên, chúng ta đều biết phải xây dựng tinh thần nhân chủ cho mỗi tế bào công dân thông qua giáo dục và tu dưỡng tính, tâm, thân, mệnh từ nhỏ, qua nhiều thế hệ thì mới tạo được một xã hội tương đối lý tưởng theo những gì Lý Đông A đề xuất, vì còn phải thay đổi rất nhiều mặt khác nữa một cách bền bỉ và thường xuyên (cách mạng hướng tâm và hướng thượng).

Một trong những cố gắng giải thích và giới thiệu về quyền lực, cách giới hạn quyền lực của Lê Anh Hùng qua cuốn sách mới ra, là Quyền Lực Và Vấn Đề Kiểm Soát Quyền Lực Trong Xã Hội, được Nguyễn Quang A trân trọng giới thiệu. Chúng ta rất nên đọc để xem hiện nay người ta suy nghĩ như thế nào về quyền lực nhà nước trong tương quan với nhân dân, tuy rằng chúng ta đã biết “dân có quyền, nhà nước có lực. Quyền dân càng cao, lực nhà nước càng mạnh” chứ không phải ngược lại. TD gửi link để tham khảo:

https://drive.google.com/file/d/1XhgQqZf_HULQRqEa0wl9sd6OWbwtLFT0/view

Thể chế chính trị chính là để người dân thực hiện cơ chế đan quyền, do đó nó rất quan trọng, bên cạnh sự quan trọng của giáo dưỡng (giáo dưỡng là khởi điểm và chung điểm của chính trị – LĐA). Chính trị của cha ông mình là phân công (ai vào việc nấy và hoàn thành trách nhiệm của mình để guồng máy chạy trơn tru, dựa nhiều vào sự ý thức của mỗi cá nhân và cả tập thể – cá nhân và tập thể đối lập mà thống nhất chứ không “chủ nghĩa cá nhân” như Tây phương hay lấy tập thể đè bẹp cá nhân như cs). Phân công của ta là theo truyền thống văn minh nông nghiệp – chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa qua hàng vạn năm làm nông mà cha ông ta nghiệm ra chuyện ấy). Do đó, ta “phân công và hợp tác” như tiên sinh họ Lý dặn, chứ không phải “phân công quy hoạch” áp chế kiểu cs; hay phân quyền để khỏi tranh chấp (chứ chưa hay không nhấn mạnh đến hợp tác) của Tây. Vì có tranh chấp nên phải “phân quyền”. Văn hóa Việt không thế: phân công và hợp tác với nhau để việc chung được hoàn thành chứ không tạo luật (phân quyền) để “tự do tranh chấp”, cuối cùng gây chia rẽ như ta đang thấy tại Mỹ. Tất nhiên, để tạo việc ấy cần một sự giáo dục lâu dài, bền bỉ của cả xã hội mới giúp gây ý thức “hợp tác” của cả xã hội – theo văn hóa “phân công” của văn minh nông nghiệp để tạo một xã hội yên bình, thương yêu nhau trong tình anh em một bọc. 

Làm chính trị mà không dựa trên văn hóa và lịch sử truyền thống của cha ông mà chỉ chạy theo người là hỏng to. Dĩ nhiên, ta vẫn phải học và gạn lọc cái hay của người làm của ta.

Tạ Dzu

About the author