Chưa bao giờ đất nước chúng ta cần một giải pháp lớn như hiện nay, và chắc chắn rằng nỗ lực dân chủ hóa đại diện bởi Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là đảm bảo lớn nhất để Việt Nam tiến lên con đường dân chủ, với một tương lai đầy hứa hẹn trong một thế giới đang thay đổi.
1. Dân chủ hóa tiến lên tại châu Âu nếu Ukraine có thể cầm cự
Trong những ngày vừa qua, chúng ta đã chứng kiến một sự triệt thoái triệt để của Hoa Kỳ khỏi vai trò lãnh đạo của thế giới. Trong sự chia rẽ và xuống cấp của nền dân chủ theo tổng thống chế của Hoa Kỳ và bầu không khí phân cực về chính trị, nước Mỹ đã bầu trở lại Donald Trump, bất chấp những nguy hại mà họ phải dự liệu trước. Donald Trump đã xem xét lại mối quan hệ giữa hai khối dân chủ Mỹ và châu Âu, và sự kiện phục kích nhằm công khai nhục mạ Zelenskyy, ép nhà lãnh đạo Ukraine phải chấp nhận một thỏa thuận hòa bình gần như đồng nghĩa với đầu hàng, đã trở thành một đòn giáng mạnh vào liên minh dân chủ Bắc Đại Tây Dương. Kể từ đây, chúng ta nhận thấy một đặc điểm của giai đoạn chuyển mình: không có mối quan hệ hay trật tự nào, dù đã tồn tại lâu dài và vững chắc, mà không bị xem xét lại. Do đó, tôi luôn tin rằng khi các liên minh dân chủ bị xem xét lại và thậm chí sụp đổ, việc các chế độ độc tài có thể đứng vững là điều không thể.
Sự rút lui đó đã tạo ra những khó khăn trước mắt, trước hết là cho Ukraine – tiền tuyến của châu Âu trong cuộc chiến chống lại sự xâm lược của Nga – nhưng đồng thời cũng đẩy nhanh quá trình chuyển mình của thế giới. Một phần số phận của thế giới sẽ được định đoạt trên chiến trường Ukraine: liệu châu Âu có đạt được đồng thuận và chấp nhận một số hy sinh để giúp Ukraine trụ vững trong cuộc chiến, hay họ sẽ để Nga giành chiến thắng, kéo theo hệ lụy là thất bại về quốc phòng biến thành thất bại về dân chủ? Khi đó, các lực lượng dân túy sẽ trỗi dậy trước nỗi thất vọng ê chề, đồng thời châu Âu còn phải đối mặt với sự can thiệp thô bạo vào nền dân chủ của mình từ Donald Trump và phe cực hữu Hoa Kỳ. Một hệ quả to lớn có lẽ sẽ khiến châu Âu không thể do dự quá nhiều trong việc đảm bảo rằng Ukraine ít nhất không bị thất thủ trước Nga. Chúng ta không quên rằng chế độ Liên Xô và khối cộng sản Đông Âu đã sụp đổ khi không có một mũi súng hay lưỡi gươm nào kề lên cổ họ. Đó là kết quả của một quá trình chuyển hóa tự nhiên trong lòng người, dựa trên niềm tin rằng dân chủ và nhân quyền mang lại phẩm giá cho con người và đáng khao khát hơn so với các chế độ độc tài. Vì vậy, nếu Ukraine có thể trụ vững dù chỉ trong một năm, Nga sẽ kiệt quệ, và lịch sử sẽ phán xét cũng như chấm dứt chế độ Putin. Làn sóng dân chủ hóa tại các nước như Slovakia, Serbia và Georgia vẫn đang tiến triển, với các cuộc biểu tình lớn nhắm vào những kẻ nửa dân chủ, nửa mafia; thậm chí chế độ của Viktor Orbán tại Hungary cũng có thể lung lay. Chỉ cần Ukraine cầm cự, đó cũng đủ để dân chủ tiếp tục tiến lên.
Tôi luôn cho rằng làn sóng dân chủ thứ ba tại Đông Âu và Liên Xô đã xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản, nhưng phương Tây đã chủ quan khi không chủ động loại bỏ chủ nghĩa đế quốc tại Nga. Phương Tây từng ngầm coi tâm lý đế quốc của Nga là một “tinh thần dân tộc” của họ và cần được tôn trọng. Trong cuộc xâm lược Ukraine, các lực lượng thân Nga không nói gì ngoài việc nhắc lại lập luận đã từng được giới chính thống phát ngôn, kèm theo những thông tin giả. Hậu quả là Nga đã hành xử như một “đàn anh” trong khu vực (regional hegemon), sử dụng áp lực quân sự và bàn tay thép để trấn áp và dập tắt bất kỳ quốc gia lân bang nào có xu hướng dân chủ hóa. Ngay từ năm 1994-2000, họ đã hai lần trấn áp lực lượng dân tộc tại Chechnya; năm 2008, họ xâm lược Georgia; năm 2014, họ xâm lược bán đảo Crimea; và họ cũng bảo kê cho các lực lượng độc tài tại Trung Đông, như Assad ở Syria. Trong khi đó, phương Tây hầu như im lặng hoặc chỉ lên án qua loa những hành động đó, khiến mọi người bàng hoàng khi Nga quyết định xâm lược Ukraine vào năm 2022, sau khi đã can thiệp vào bầu cử Mỹ năm 2016. Tinh thần dân chủ và cởi mở của năm 1989 đã nhường chỗ cho một lối hành xử địa chính trị thực dụng không thể chấp nhận được, nơi mà những quốc gia nhỏ, dù rất quyết tâm dân chủ hóa (như Ukraine), lại bị Nga đe dọa, chống phá, và gần như trong sự im lặng và thờ ơ của châu Âu dân chủ. Sự thất bại của Nga chắc chắn sẽ dẫn đến một quá trình dân chủ hóa triệt để trong khu vực thuộc Liên Xô cũ và có thể lan rộng đến Trung Á.
2. Đế quốc Trung Hoa cũng trên đà triệt thoái
Nếu Hoa Kỳ rút lui, khối dân chủ sẽ buộc phải sắp xếp lại. Nước Nga dưới sự lãnh đạo của Putin, là một đầu sỏ trong khu vực cận Âu, cũng sẽ rút lui nếu mặt trận Ukraine được đảm bảo, dẫn đến một quá trình dân chủ hóa triệt để ở châu Âu. Vậy, chúng ta có thể dự đoán gì nếu thực sự đầu sỏ tại khu vực Á Châu – Thái Bình Dương là Trung Quốc cũng sẽ rút lui?
Trên cơ sở đó, chúng ta buộc phải bàn về một triển vọng dân chủ hóa khác tại khu vực Đông Nam Á, hay nói rộng ra là châu Á – Thái Bình Dương. Một nét đậm của khu vực Đông Nam Á là chúng ta chịu chi phối sâu sắc bởi ảnh hưởng của Trung Quốc. Nếu xét trong một bối cảnh hợp tác đa phương, chúng ta sẽ không thể giải quyết nhiều vấn đề nếu thiếu đi sự hiện diện của Trung Quốc, như vấn đề quản lý nguồn nước sông Mekong với các nước Đông Nam Á lục địa, và vấn đề biển Đông với Việt Nam và các nước Đông Nam Á Hải Đảo. Xét về vị trí địa lý và trọng lượng, Trung Quốc hoàn toàn có thể áp đảo bất cứ nước Đông Nam Á nào. Tuy hoàn toàn khác biệt về bản chất với Nga, Trung Quốc đã là một đầu sỏ lớn trong vùng. Dù tích cực hoặc một cách thụ động, sự tồn tại của Trung Quốc như một chế độ độc tài toàn trị vẫn là mối đe dọa đối với tiến trình dân chủ hóa ở khu vực Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam. Vào thập niên 1980, khi chế độ CSVN rơi vào tình thế rất khó khăn, thay vì lựa chọn con đường dân chủ hóa, họ đã quyết định theo đuổi một mô hình kinh tế đổi mới nửa vời, rập khuôn và chấp nhận lệ thuộc vào Trung Quốc để tồn tại. Tuy nhiên, tình hình có thể đã thay đổi, vì Trung Quốc cũng đang trong quá trình triệt thoái.
Vừa qua, Trung Quốc tuyên bố sẽ không thay đổi mục tiêu tăng trưởng 5% trong năm nay. Vào tháng 11/2024, họ đã tung ra một gói kích cầu kéo dài 5 năm, trị giá 1,4 nghìn tỷ USD, tương đương gần 8% GDP của nền kinh tế Trung Quốc. Tuy nhiên, bối cảnh chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ, cùng với sự đứt gãy của chuỗi cung ứng toàn cầu, sẽ buộc Trung Quốc phải bơm nhiều tiền hơn vào nền kinh tế so với mức dự tính ban đầu. Vào năm 2025, chúng ta ghi nhận mức nợ công của Trung Quốc vào khoảng 18 ngàn tỷ (có nghĩa là đã tăng 1.8 lần so với năm 2020) (Nguồn: Statista). Tuy thế, rủi ro về nợ lớn nhất của Trung Quốc đến từ những phương tiện tài chính (dưới hình thức các công ty) được chính quyền Trung Quốc lập ra nhằm tiếp tục vay vốn khi mà họ không còn khả năng vay (Local Government Financing Vehicles-LGFVs), và con số này hoàn toàn không được tính vào nợ công. Theo nguồn thống kê của ngân hàng dự trữ Úc, con số này vào khoảng gần một nửa GDP trong năm 2024. Trung Quốc đã nới lỏng hoạt động tài chính, và chắc chắn rằng hiện nay Trung Quốc đang gặp những vấn đề lớn về khả năng tiếp tục cho vay và trả nợ. Nếu như họ tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng 5% bằng cách bơm thêm tiền vào nền kinh tế, Trung Quốc sẽ đi đến một tình trạng nào?
Điều không thể tránh khỏi, với những bằng chứng rõ ràng, là sự triệt thoái – hay nói đúng hơn, sự giải tán toàn diện – của dự án Vành đai và Con đường, vốn đã vượt mốc 1.000 tỷ USD vào năm 2024. Sáng kiến này, do Tập Cận Bình khởi xướng vào năm 2013, là một nỗ lực nhằm xuất khẩu năng lực xây dựng dư thừa của Trung Quốc ra thế giới, qua đó cứu vãn cuộc khủng hoảng trong ngành công nghiệp xây dựng của nước này. Đồng thời, nó cũng tạo một hình ảnh Trung Quốc bành trướng và sẵn sàng thay đổi một trật tự thế giới dân chủ do Hoa Kỳ lãnh đạo.
Có những thời điểm, ngay trong cuộc khủng hoảng nhập cư tại châu Âu năm 2015, dự án Vành đai và Con đường đã mở rộng tầm ảnh hưởng đến khu vực này, bao gồm cả Italy. Sáng kiến này còn hiện diện mạnh mẽ tại châu Phi, Nam Mỹ, các nước Tây Á, Trung Á, Trung Đông, và đặc biệt đóng vai trò quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Có thể nói một cách thận trọng rằng chính dự án Vành đai và Con đường đã cản trở tiến trình dân chủ hóa lành mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn, Pakistan — một quốc gia có nhiều tiềm năng dân chủ — trong bối cảnh bất mãn với Ấn Độ và những vụng về trong chính sách của Hoa Kỳ, đã lựa chọn trở thành một phần của dự án này. Tại Myanmar, một điều đáng ngạc nhiên là Aung San Suu Kyi, nhà lãnh đạo dân chủ của Myanmar, cũng lựa chọn theo đuổi dự án Vành đai con đường như một phương tiện để phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta không nên quên rằng, vào năm 2020, bà Aung San Suu Kyi đã ký với Tập Cận Bình 33 thỏa thuận hợp tác kinh tế, tiếp nối Hội nghị Vành đai và Con đường mà chính bà đã chủ trì vào năm 2018. Nhìn vào những công trình được chính quyền bà Aung phê duyệt, như tuyến đường sắt nối liền Trung Quốc và Myanmar, các đặc khu kinh tế (SEZ) như Kyaukpyu, các cảng nước sâu giúp Trung Quốc đối đầu với Ấn Độ tại Ấn Độ Dương, và thành phố New Yangon, thật khó để tin rằng đó là lựa chọn của một nhà lãnh đạo theo đuổi dân chủ hóa. Khi cuộc đảo chính quân sự xảy ra vào năm 2021, người ta chợt nhận ra rằng sự triệt thoái của nền dân chủ và sự sụp đổ của Myanmar có một phần trách nhiệm lớn thuộc về bà Aung San Suu Kyi. Thay vì lựa chọn dân chủ hóa thông qua một dự án chính trị vững chắc, các chính sách kinh tế hài hòa và sự hội nhập với nền kinh tế thế giới, bà phần nào đã tin vào “phép màu” của Dự án Vành đai và Con đường, đồng thời vạch ra một chính sách kinh tế khiến Myanmar gần như lệ thuộc vào Trung Quốc. Sự hiện diện của các dòng tiền có thể được chi tiêu một cách tùy tiện đã mê hoặc nhiều chính quyền còn đang ngấp nghé trước ngưỡng cửa dân chủ hoặc đang có nhu cầu đổi mới. Cùng với tâm lý muốn đạt được những thành tích mang tính mị dân hoặc tìm kiếm lợi ích cá nhân, điều này đã cản trở tiến trình dân chủ hóa thực sự ở một số quốc gia chịu ảnh hưởng.
Và trong một thế cuộc như vậy, từ những năm 2014, Việt Nam cũng bắt đầu nổi lên như một địa hạt cạnh tranh giữa Trung Quốc và phương Tây. Những chính quyền của Obama – Biden hay châu Âu đã nhiều lần ngỏ lời cho rằng Việt Nam nên trở thành một đối tác tin cậy của phương Tây.
Nhưng liệu nỗ lực duy trì mức tăng trưởng GDP 5% có buộc Trung Quốc phải rút lui toàn diện khỏi dự án Vành đai Con đường hay không? Ba ngày trước, Reuters đăng một bản tin độc quyền về việc Power China, một tập đoàn xây dựng trong ngành điện lực của Trung Quốc, khởi kiện công ty quốc doanh của Lào (Lao Utilities) để đòi thanh toán 555 triệu USD chi phí xây dựng cho chuỗi dự án thủy điện Nam Ou. Dự án này, thuộc khuôn khổ Vành đai – Con đường, được triển khai tại tuyến thượng nguồn tỉnh Luang Prabang, Bắc Lào, bao gồm 486,27 triệu USD nợ đáo hạn và 65,79 triệu USD tiền lãi. Một điều khó hiểu là doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc đã đưa đơn kiện lên tòa án quốc tế tại Singapore, điều này phần nào chứng tỏ sự đổ vỡ giữa Lào và chính quyền Trung Quốc, hoặc đơn giản là Lào hoàn toàn bất lực trong việc thanh toán khoản nợ này cho Trung Quốc. Đây chỉ là một chi tiết nhỏ trong bẫy nợ của dự án đường sắt nối liền Lào và Trung Quốc, cùng với các nhà máy thủy điện mà Trung Quốc xây dựng để chặn dòng sông Mekong, nhưng lại không thể bán điện cho Việt Nam hay Thái Lan. Cùng thời điểm đó, chính quyền Lào ban hành lệnh tạm hoãn cấp phép đầu tư cho các mỏ mới, và không rõ đây có phải là một bước đi nhằm tránh áp lực từ Trung Quốc buộc Lào phải dâng thêm các mỏ quặng để trả các khoản nợ sắp tới hay không.

Trước việc rút lại các cam kết về nguồn vốn tài trợ cho dự án trị giá 1,7 tỷ đô la Funan Techno tại Campuchia, Trung Quốc cũng tuyên bố sẽ rút khỏi dự án sân bay Phnom Penh trị giá 1,1 tỷ đô la. Các khoản cho vay và viện trợ không hoàn lại theo dạng ODA của Trung Quốc dành cho Campuchia đã giảm từ mức 400 triệu đô la vào năm 2021 xuống dưới 50 triệu đô la vào năm 2026. Ba quốc gia Đông Nam Á lục địa là Myanmar, Lào và Campuchia đều đã tham gia vào dự án Vành đai Con đường của Trung Quốc. Myanmar đã thất bại khi chưa kịp triển khai kế hoạch nào và rơi vào tình trạng nội chiến; trong khi đó, hai quốc gia còn lại là Lào và Campuchia, sau một thập kỷ tham gia sáng kiến Vành đai Con đường, hiện nay đã rơi vào tình trạng vỡ nợ, và không những thế còn đối mặt với bất ổn về an ninh. Trung Quốc cũng đã bỏ mặc một cách không chính thức và không yểm trợ về tài chính để duy trì sự sống cho những chế độ này. Chúng ta sẽ không bất ngờ nếu thời gian tới cả Lào và Cambodia sẽ rơi sâu thêm vào một cuộc khủng hoảng không lối thoát (dù thực tế họ đã khủng hoảng). Tất nhiên, chúng ta vẫn có thể thấy những công trình cơ sở hạ tầng và các khoản đầu tư của tư nhân Trung Quốc trên thế giới, đặc biệt là ở những dự án khá an toàn và có khả năng hoàn trả đúng hạn dựa trên khối lượng xây dựng, với những quốc gia đã đạt được thành tựu nhất định về công nghiệp và kỹ thuật, đồng thời có thể thực hiện với chi phí thấp. Tuy nhiên, nguồn lực và các khoản cho vay để xây dựng bừa bãi ở nước ngoài của Trung Quốc, hay nói cách khác, chi tiêu cho sáng kiến Vành đai Con đường, hiện đã không còn. Một câu hỏi chúng ta cần phải đặt ra là liệu đã có một chỉ đạo không chính thức từ Bắc Kinh rằng họ sẽ rút toàn bộ những đầu tư liên quan đến Vành đai – Con đường, không những thế còn rút ra một cách thô bạo hay không? Họ đang bỏ chạy và trước tiên là rút khỏi khu vực Đông Nam Á lục địa
3. Dân chủ vẫn sẽ tiến tới trên thế giới và tại Việt Nam
Nhưng khi dành một thời lượng lớn của bài viết này để bàn về sự triệt thoái của Trung Quốc và dự án Vành đai Con đường, chúng ta có thể kết luận gì? Một bối cảnh Hoa Kỳ đã triệt thoái và cùng với sự bất ổn trong các chuỗi cung ứng và thị trường tiêu thụ không cho phép chúng ta kết luận rằng hạn kỳ dân chủ hóa có thể trì hoãn. Hay nói cách khác là theo đầu óc thực tiễn của lãnh đạo chế độ, nếu vào ngày 13/3 này, cuộc điều đình về thương mại giữa ông Nguyễn Hồng Diên và Hoa Kỳ kết thúc trong thất bại, Việt Nam sẽ không còn một tiếp cận ổn định vào thị trường xuất khẩu Hoa Kỳ, vốn chiếm 30% GDP đất nước. Họ sẽ phải chọn con đường khác, chẳng hạn xích lại gần hơn với Trung Quốc. Chế độ Cộng sản Việt Nam cũng cần ghi nhớ rằng đằng nào Trung Quốc cũng không còn là một đảm bảo cho họ. Điều đó đã được ông Nguyễn Gia Kiểng trình bày từ những năm 2015 trong bài “Khi thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang”. Trung Quốc cũng đang trên đà triệt thoái và khả năng gần như tuyệt đối sẽ không tham gia tài trợ cho dự án đường sắt Bắc Nam và tuyến đường nối liền giữa Trung Quốc tới Hà Nội, một dự án mà chế độ CSVN vẽ ra theo motif Vành đai – Con đường và chỉ cầu mong sự đầu tư đến từ Trung Quốc.
Vào cuối tháng hai, ông Tô Lâm đã gặp hai nhà lãnh đạo Lào và Cambodia tại Dinh độc lập. Chúng ta không rõ họ có đủ cởi mở để thảo luận với nhau về tình hình khốn đốn của riêng mình và đặt ra câu hỏi về số phận của các chế độ độc tài? Không biết họ có nhận ra rằng từ chối dân chủ hóa là con đường hoặc là đi tới bất ổn, và hỗn loạn; hoặc là sẽ đưa đất nước mình vào tình trạng lệ thuộc không lối thoát để rồi cũng dẫn đến cảnh sụp đổ trong hỗn loạn sau một thời gian hay không?

Ngược lại, trong một thế giới đầy những bất ổn, dân chủ hóa thông qua những giá trị đúng như đề cao quyền cao người và phẩm hạnh; những chính sách kinh tế hợp lý như đề cao tư doanh, sự sáng tạo, phát triển thị trường nội địa lành mạnh, và một nền kinh tế hài hòa với môi sinh; cùng với những cam kết về các giá trị tiến bộ và nỗ lực hội nhập vào thế giới, lại nổi lên như một một điều kiện để Việt Nam hay bất cứ một quốc gia nào có một tương lai đảm bảo.
Nhưng rõ ràng, trong một thế giới đầy biến động như hiện nay, không có mối quan hệ hay yếu tố nào có thể đảm bảo sự ổn định cho một quốc gia khi mà mọi thứ có thể bị xét lại hoặc diễn biến chỉ trong vài tháng. Dân chủ hóa là yếu tố duy nhất có thể đảm bảo sự ổn định trong một thế giới như vậy. Có thể các quốc gia Đông Nam Á Hải Đảo như Philippines, Indonesia và Malaysia vẫn phải tiếp tục con đường dân chủ hóa của mình một cách kiên quyết hơn, nhưng họ dường như đã có một chỗ đứng vững chắc và một tương lai đảm bảo.
Những quốc gia đã duy trì chế độ độc tài hoặc không thành thực với dân chủ trong một thời gian dài, mượn “Vành đai và Con đường” như một giải pháp, đã sụp đổ và rơi vào hỗn loạn, như Myanmar, Lào và Cambodia. Chế độ cộng sản liệu có hiểu rằng Việt Nam sẽ lựa chọn gia nhập vào hàng ngũ nào?
Hoa Kỳ đã triệt thoái khỏi vai trò lãnh đạo trong khối dân chủ, nhưng cũng không có nghĩa là dân chủ sẽ triệt thoái. Hai đế quốc độc tài là Nga và Trung Quốc cũng đang khốn đốn và buộc phải triệt thoái khỏi những khu vực và địa hạt mà họ từng có ảnh hưởng. Đúng là thế giới đang thiếu một nhà lãnh đạo dân chủ sau khi Hoa Kỳ từ nhiệm. Nhưng dù sao thiếu vắng một nhà lãnh đạo vẫn hơn một nhà lãnh đạo tồi tệ. Mặt khác, những ông trùm độc tài trong khu vực (regional hegemon) cũng đang rút lui. Và những sự hăm dọa, sự chống đối dân chủ hóa đến từ Nga hay Trung Quốc cũng không còn nữa. Và câu hỏi đặt ra là nếu từ chối dân chủ hóa thì sẽ dẫn đến kết cục nào?
Tổng Thư Ký John W.H thuộc Phòng Thương Mại Quốc Tế (International Chamber of Commerce) nói rằng Hoa Kỳ tuy mạnh và quan trọng nhưng cũng chỉ chiếm 13% các vấn đề thương mại thế giới. 87% còn lại của thế giới vẫn có thể tự tổ chức lại trong một bối cảnh Hoa Kỳ rời bỏ trật tự thương mại đa phương và gây thương chiến. Nhiều nước dân chủ còn lại, trong đó có châu Âu, sẽ buộc phải tìm đến nhau và tìm đến những đối tác thay thế (ngoài Trung Quốc). Trong đó những đối tác tiềm năng và chiến lược để hợp tác là khối dân chủ Đông Á, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan; khối dân chủ Nam Mỹ; khối Đông Nam Á và Đông Á bao gồm những nền kinh tế mới nổi và bắt đầu có một mức dân chủ tương đối (bao gồm 2.6 tỷ dân nếu tính cả hai khối với một tiềm năng tương đương với Trung Quốc). Hoa Kỳ có thể trở lại hay không nhưng hợp tác quốc tế và những cố gắng chung của thế giới vẫn phải tiếp diễn.
Việt Nam cũng đứng trước những cơ hội hội nhập mới và dần tìm được một chỗ đứng đảm bảo. Nhưng có lẽ với một trọng lượng kinh tế chỉ 0.18% GDP thế giới, Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài phải dân chủ hóa. Và phải dân chủ hóa thành thực nếu không muốn bị loại bỏ và tự mình cô lập. Thực tế, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu – Việt Nam (EVFTA) với châu Âu, để rồi vấn đề thực thi bị bỏ ngỏ vì vấn đề không có công đoàn lao động độc lập. Nói cách khác, những hợp tác về kinh tế và thương mại đã bị ràng buộc vào các cam kết dân chủ hóa.
Trước đây, mỗi khi thế giới đi vào một bối cảnh mới, chế độ CSVN hoặc là họ sẽ tìm cách lệ thuộc vào Trung Quốc, hoặc là dựa dẫm vào một số hứa hẹn để cứu sống chế độ từ Hoa Kỳ. Nhưng trong tình thế hiện nay, có một lựa chọn khác, và một lựa chọn sáng suốt hơn là mạnh dạn đi về phía dân chủ hóa. Trong tình hình hiện nay, chế độ CSVN cần được cảnh báo rằng họ không nên thủ cựu và phải từ bỏ ngay ý định xin cầu viện từ Trung Quốc, vì điều đó không còn khả thi. Nếu vẫn có sự chống lưng từ Trung Quốc, đó sẽ là một sự bán rẻ đất nước với kịch bản hỗn loạn như ở Myanmar. Lựa chọn cô lập và từ chối dân chủ hóa sẽ dẫn đến sự chia rẽ và hỗn loạn. Đây sẽ là một kết cục buồn cho tương lai của đất nước và có thể đặt tính mạng cùng tương lai của các đảng viên chế độ cộng sản vào một rủi ro lớn. Bởi vì, dù muốn hay không, tất cả người dân Việt Nam, kể cả đảng viên ĐCSVN, đều phải gắn bó với tương lai của đất nước.
Mặt khác, những người muốn chuyển hóa cũng không nên nghĩ rằng họ có thể tự mình thực hiện điều đó bằng cách theo đuổi mô hình tổng thống chế, một mô hình đã thất bại cùng với sự triệt thoái của Hoa Kỳ và hình ảnh Donald Trump. Một chế độ độc tài cá nhân dựa trên mô hình tổng thống sẽ khiến người lãnh đạo rơi vào ảo tưởng rằng họ có thể thành công trong chính trị chỉ nhờ sức mạnh và quyền lực. Tuy nhiên, điều này sẽ gây nguy hiểm cho chính bản thân họ, bởi vì những người làm chính trị cá nhân và mưu cầu quyền lực cá nhân, thay vì xây dựng một tổ chức đấu tranh có kế hoạch chính trị bài bản, thường chỉ gặp thất bại ê chề. Sự chống trả dân chủ hóa không phải là giải pháp, nhưng loay hoay giải một bài toán chuyển hóa với thái độ thiếu lương thiện cũng không phải là giải pháp. Dân chủ hóa luôn cần một tổ chức chính trị đại diện cho đội ngũ lương thiện và một dự án chính trị có bài bản.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên luôn là một nỗ lực dân chủ hóa đất nước với tinh thần hòa giải và đã đưa ra những giải pháp đúng đắn cho quốc gia. Việc lựa chọn từ bỏ chế độ cộng sản và ủng hộ Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên không chỉ là một lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh, mà còn là một sự lựa chọn yêu nước, có lợi cho dân tộc, và giúp đất nước tiến vào một kỷ nguyên mới. Chưa bao giờ đất nước chúng ta cần một giải pháp lớn như hiện nay, và chắc chắn rằng nỗ lực dân chủ hóa đại diện bởi Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là đảm bảo lớn nhất để Việt Nam tiến lên con đường dân chủ, với một tương lai đầy hứa hẹn trong một thế giới đang thay đổi. Lúc này, chúng ta cần kiên quyết lựa chọn một tương lai đúng đắn cho đất nước!
Chu Tuấn Anh
(08/03/2025)