Giới báo chí ở Việt Nam đang rầm rộ tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị đánh dấu 100 năm ngày lãnh tụ cộng sản Nguyễn Ái Quốc xuất bản số đầu tiên của báo Thanh Niên (21.6.1925), sự kiện được định danh là “ngày báo chí cách mạng”. Mặc dù chưa đến ngày 21 tháng 6, nhưng cánh làm báo trong nước đã khởi phát các hoạt động ăn mừng sự kiện này từ cả tuần qua.
Nhưng rốt cuộc, cái gọi là “báo chí cách mạng” ấy, thực chất là gì?

𝐁á𝐨 𝐜𝐡í 𝐜á𝐜𝐡 𝐦ạ𝐧𝐠: T𝐡𝐢ế𝐭 𝐜𝐡ế 𝐤𝐢ể𝐦 𝐬𝐨á𝐭 𝐯à đị𝐧𝐡 đ𝐨ạ𝐭 𝐝𝐢ễ𝐧 𝐧𝐠ô𝐧 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐡ệ 𝐭𝐡ố𝐧𝐠 𝐜𝐡í𝐧𝐡 𝐭𝐫ị 𝐭𝐨à𝐧 𝐭𝐫ị
Khái niệm “báo chí cách mạng” (revolutionary press), còn được gọi là báo chí vô sản (proletarian press), là một sản phẩm đặc thù của các chế độ cộng sản, bắt nguồn từ truyền thống chính trị-lý luận của chủ nghĩa Marx-Lenin. Khác với mô hình báo chí tự do hình thành trong các xã hội tư sản châu Âu thế kỷ 19, vốn được quan niệm như một không gian công cộng (public sphere) nhằm thúc đẩy thảo luận dân chủ và bảo vệ quyền tự do ngôn luận, báo chí cách mạng ngay từ đầu đã được thiết lập như một thiết chế diễn ngôn, mang bản chất công cụ và tuyệt đối phục tùng mục tiêu chính trị của lực lượng cầm quyền.
Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, báo chí ở nước Nga Xô-viết nhanh chóng bị đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của đảng Bolshevik. Chính Vladimir Lenin đã vạch rõ quan điểm này trong nhiều văn kiện lý luận và thư từ, đáng chú ý là lời tuyên bố trong thư gửi Emma Goldman năm 1920, khi ông bác bỏ tính phổ quát của tự do báo chí: “Tự do ngôn luận là một thiên kiến tư sản” (free speech is a bourgeois prejudice). Theo đó, báo chí không phải là không gian tranh luận giữa các quan điểm đa chiều mà là một mặt trận đấu tranh tư tưởng, nơi tiếng nói duy nhất hợp pháp là tiếng nói của đảng cộng sản.
Trong paradigm này, báo chí cách mạng không mang chức năng phản biện quyền lực hay giám sát chính quyền như báo chí tự do, mà được trao bốn nhiệm vụ chính: Tuyên truyền (agitprop), giáo dục (ideological training), cổ động (mobilization) và tổ chức quần chúng (organizational work). Báo chí trở thành một “tập thể tuyên truyền viên, cổ động viên và tổ chức viên” của đảng, một định nghĩa mang tính nguyên tắc được Stalin và sau đó là các chế độ cộng sản Đông Âu và châu Á cho phổ biến hóa.
Quan trọng hơn, báo chí cách mạng vận hành theo nguyên lý “tính đảng” (partiinost), một phạm trù then chốt trong lý luận truyền thông Xô-viết. Tính đảng ở đây không chỉ là bảo đảm sự trung thành về lập trường giai cấp, mà còn bao hàm sự lựa chọn và trình bày sự thật theo định hướng của đảng cộng sản. Sự thật – trong mô hình này – không mang ý nghĩa khách quan hay độc lập, mà chỉ có giá trị nếu nó phục vụ mục tiêu cách mạng. Vì vậy, chức năng thông tin của báo chí bị thu hẹp, nhường chỗ cho việc kiến tạo thực tại thông qua các hình mẫu lý tưởng, các “gương người tốt, việc tốt” và các câu chuyện thành công được trích lọc có chủ đích. Báo chí không phản ánh hiện thực đa chiều mà dựng nên một hiện thực “nên có”, một thực tại lý tưởng hóa nhằm củng cố niềm tin vào “chính nghĩa cách mạng”.
Chính mô hình báo chí này, với bản chất sâu xa là công cụ tuyên truyền trong một nhà nước chuyên chính toàn trị, đã được du nhập và chuẩn hóa tại nhiều quốc gia cộng sản trong thế kỷ 20, trong đó có Việt Nam. Khi thuật ngữ “báo chí cách mạng” được sử dụng tại Việt Nam hôm nay như một thứ danh hiệu, nó không chỉ gợi nhắc một truyền thống lịch sử, mà còn được xác định vai trò của một công cụ chính trị, được tích hợp vào hệ thống quyền lực độc đảng, nơi báo chí không được phép làm điều gì khác ngoài việc phục vụ mục tiêu chính trị của đảng. Mọi kỳ vọng về tính độc lập, phản biện hay tự do thông tin đều bị gạt bỏ và dán nhãn “ảo tưởng tư sản”.
Charles Bradlaugh, nhà cải cách xã hội Anh từng nói: “Không có tự do ngôn luận thì mọi truy tìm sự thật là điều bất khả” (Without free speech no search for truth is possible). Báo chí vô sản tước bỏ, bóp méo và bưng bít sự thật nhằm phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Do đó, lẽ ra phải là “công cụ tốt nhất cho việc mở mang trí tuệ con người”, thì ngược lại, báo chí cách mạng chính là thứ công cụ góp phần tẩy não (brainwashing) để thực hiện chính sách ngu dân.
Trong cuộc họp báo đầu tiên 16 năm trước sau khi nhậm chức ông chủ Nhà Trắng, tổng thống Mỹ Barrack Obama nói: “Tự do ngôn luận và tự do báo chí, đó là những gì sẽ cho phép chúng ta giữ được sự kiểm soát đối với chính phủ” (Our freedom of speech and freedom of the press, that’s what lets us keep a check on government). Đối chiếu với câu nói đó, người ta nhận ra ngay các nền báo chí vô sản đều có chiều diễn biến ngược lại.
Báo chí cách mạng Việt Nam là một phiên bản sao chép triết lý từ hình mẫu báo chí vô sản của Lenin. Và hệ lụy gây ra từ bản chất của nền báo chí đó là gì?
𝐌ộ𝐭 𝐧ề𝐧 𝐛á𝐨 𝐜𝐡í 𝐛ị 𝐜𝐡ế đị𝐧𝐡 𝐛ở𝐢 𝐪𝐮𝐲ề𝐧 𝐥ự𝐜 𝐜𝐡í𝐧𝐡 𝐭𝐫ị, 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐥𝐮ô𝐧 𝐛ị 𝐤𝐢ể𝐦 𝐝𝐮𝐲ệ𝐭 𝐜ó 𝐜𝐡ủ đí𝐜𝐡 𝐯à 𝐭𝐡ô𝐧𝐠 𝐭𝐢𝐧 đượ𝐜 𝐜ấ𝐮 𝐭ạ𝐨 𝐧𝐡ằ𝐦 𝐩𝐡ụ𝐜 𝐯ụ 𝐦ụ𝐜 𝐭𝐢ê𝐮 𝐭𝐮𝐲ê𝐧 𝐭𝐫𝐮𝐲ề𝐧 𝐜ủ𝐚 đả𝐧𝐠 𝐜ộ𝐧𝐠 𝐬ả𝐧
Ở Việt Nam, để buộc cỗ xe báo chí đi đúng định hướng, phải có đến bốn tay lái: Lái chính là Ban Tuyên giáo trung ương, ba lái phụ là Bộ Khoa học và công nghệ (trước đây là Bộ Thông tin và truyền thông), Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công an, và cuối cùng là cơ quan chủ quản tờ báo. Để làm tốt việc tuyên truyền theo định hướng, báo chí cách mạng liên tục đưa tin người và việc điển hình xuất hiện trong quần chúng để cổ vũ phong trào cách mạng.
Trong bài giảng về viết tin, ông Hoàng Tuấn, cựu tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam kể: Hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, khi chưa tìm ra một điển hình nông dân giỏi hưởng ứng lời kêu gọi tăng gia sản xuất của chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã cho bịa ra câu chuyện về một người nông dân gương mẫu vỡ hoang trồng khoai sắn. Không ngờ cụ Hồ khi đọc tin đó, đã hỏi địa chỉ người nông dân để tặng thưởng huy hiệu. Ông Tuấn đành phải báo cáo thật là mình cho bịa ra “điển hình” để cổ vũ phong trào.
Gần 30 năm sau chiến tranh, nhân kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng Điện Biên Phủ (2004), nhà báo Lưu Trọng Văn đã công phu sưu tầm tài liệu, viết một loạt bài đăng trên 5 kỳ [trên] tạp chí Kiến thức Gia đình (phụ bản báo Nông nghiệp Việt Nam) để chứng minh rằng: Không có chuyện Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai; không có chuyện Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo; cũng không có chuyện giữa trận địa pháo Nguyễn Viết Xuân hô to: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn!”. Tất cả các chiến sĩ nói trên đều chiến đấu rất ngoan cường, hy sinh rất anh dũng trong các trận chiến chống quân xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần cho chiến thắng chung của cả dân tộc. Tuy nhiên trước lúc hy sinh, tất cả họ không ai làm cái việc như sau này các nhà báo bịa chuyện vẽ vời kiểu vậy.
Những bài báo của ông Lưu Trọng Văn đăng trên một tạp chí ít người đọc nhưng đã làm cho ông Nguyễn Khoa Điềm, khi ấy là ủy viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tuyên giáo Trung ương tức giận, phê phán gay gắt.
Cũng năm đó, Lưu Trọng Văn trích “Hồi ký không tên” của nhà báo Lý Quý Chung, đoạn kể ông Dương Văn Minh chủ động đầu hàng như là thực hiện một nhiệm vụ cao cả, đăng trên tờ Nhà báo và Công luận của Hội Nhà báo Việt Nam, số ra cuối tháng kỷ niệm ngày 30 tháng 4. Báo này vừa phát hành đã bị thu hồi, nhưng không cho phép đưa tin lý do bị thu hồi, sau đó bị đình bản.
Lý do thu hồi thực sự là ở thời điểm đó chưa cho phép đề cao vai trò ông Dương Văn Minh, mà chỉ đề cao sức mạnh của các quân đoàn buộc ông phải hàng phục. Cần biết rằng bản thảo bài báo đã được ông Võ Văn Kiệt đọc, ông Trần Bạch Đằng viết lời giới thiệu, và quyển hồi ký này sau đó buộc phải biên tập lại mới được phép xuất bản.
Trong một cuộc góp ý kiến cho một tờ báo đang sa sút, ông Xuân Cang, nguyên tổng biên tập báo Lao Động, tâm sự rằng, ngay khi bước vào nghề làm báo, ông đã dặn mình, bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải nói cho được sự thật. Nhưng thực tế đã dạy ông điều còn quan trọng hơn là phải biết cách nào để nói ra được cái sự thật ấy.
Ông kể, năm 1986 ông cho đăng bài viết của ông Lê Giản, nguyên giám đốc Nha Công an đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong bài có câu “nhà đã dột từ nóc rồi”. Vì câu đó, ông bị Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương phê phán dữ dội. Người ta hỏi, ông không biết nói “nóc nhà” là ám chỉ Bộ Chính trị hay sao? (Thực ra thì nhà thơ Việt Phương mới là người đầu tiên có ý nghĩ này trong câu thơ “Bùn đã vấy đến chín tầng mây”, và ông này đã phải trả giá bằng những năm tháng bị buộc rời khỏi bàn viết trong dinh thủ tướng để đi lao động cải tạo tư tưởng ở nông trường). May cho ông Xuân Cang, thời điểm này vừa bắt đầu chính sách Đổi mới cho nên ông được tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thông cảm, chỉ cho làm bản kiểm điểm, yêu cầu tránh không được tái phạm. Ông Xuân Cang kết luận: “Cho đăng bài viết đó là không biết cách để nói được sự thật!”.
Nói về tác hại của việc kiểm duyệt cắt xén sự thật, nhà văn Nga vĩ đại Alexander Solzhenitsyn, tác giả của cuốn bút ký gây chấn động thế giới “Quần đảo ngục tù” (The Gulag Archipelago) đã viết: “Đây không chỉ là chuyện bóp nghẹt tự do mà là việc gắn xi vào trái tim dân tộc, là xóa bỏ ký ức của chính dân tộc đó” (This is not merely interference with freedom of the press but the sealing up of a nation’s heart, the excision of its memory).
𝐌ộ𝐭 𝐧ề𝐧 𝐛á𝐨 𝐜𝐡í 𝐜𝐡ỉ đượ𝐜 𝐩𝐡á𝐭 𝐧𝐠ô𝐧 𝐧𝐡ữ𝐧𝐠 𝐠ì đả𝐧𝐠 𝐜ộ𝐧𝐠 𝐬ả𝐧 𝐜𝐡𝐨 𝐩𝐡é𝐩, 𝐯à 𝐜𝐡ỉ 𝐩𝐡ụ𝐜 𝐯ụ 𝐭𝐮𝐲ệ𝐭 đố𝐢 𝐜𝐡𝐨 𝐪𝐮𝐲ề𝐧 𝐥ợ𝐢 𝐜ủ𝐚 đả𝐧𝐠, 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐩𝐡ả𝐢 𝐜ủ𝐚 𝐧𝐡â𝐧 𝐝â𝐧
“Báo chí là công cụ của đảng cộng sản”. Nguyên lý này yêu cầu tất cả những người làm báo Việt Nam đều phải thuộc nằm lòng. Sau khởi sự Đổi mới, tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã có sáng kiến quan trọng là tặng thêm cho báo chí Việt Nam mệnh đề thứ hai: “Là diễn đàn của quần chúng”. Một vài cán bộ báo chí quá say sưa với Đổi mới, cứ tưởng cái “diễn đàn” của ông Linh đã hoàn toàn chấp nhận tự do tư tưởng và nhà báo có thể phản biện mọi chính sách đã ban hành. Nhầm lẫn đó khiến không ít người phải trả giá.
Trong cuộc hội nghị “quán triệt nghị quyết hội nghị trung ương” (khóa 6), ở buổi thảo luận tổ, ông Bùi Tín, khi đó là phó tổng biên tập báo Nhân Dân, kể, ông rất khó trả lời khi các đồng nghiệp phương Tây hỏi ông vì sao đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa nguyên? Ông Bùi Tín luôn cho rằng đảng nên chấp nhận đa nguyên để thực hiện dân chủ. Theo ông, thực tế Việt Nam đã có những yếu tố đa nguyên: Đảng Cộng sản, đảng Dân chủ và đảng Xã hội hợp tác với nhau rất tốt đẹp; Mặt trận Tổ quốc gồm nhiều đoàn thể có những tiếng nói khác nhau; các tờ báo của mọi giới, mọi tầng lớp thể hiện những mong muốn rất đa dạng…
Ông Bùi Tín nói dài hơn 30 phút, được toàn tổ gồm những tổng biên tập báo, đài phát thanh, đài truyền hình lắng nghe. Tổ trưởng tổ này là ông Thái Ninh, phó trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, không ngắt lời mà có vẻ khuyến khích ông Bùi Tín. Không ai ngờ trong buổi tổng kết hội nghị, ông Đào Duy Tùng, ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách cả khối tuyên giáo, báo chí, văn nghệ đã cao giọng phê phán: “Thật đáng chê trách là tại cuộc họp gồm toàn cán bộ cốt cán của đảng mà lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ thực hiện đa nguyên. Đồng chí đó không biết rằng đa nguyên là hình thức dân chủ mị dân của chủ nghĩa tư bản. Đòi đa nguyên được, rồi sẽ đòi đa đảng!”
Hôm đó ông Bùi Tín ngồi ở hàng ghế gần cuối hội trường, rất ít người nhìn thấy ông hai tay chống cằm, mặt cúi gằm, mớ tóc dài rũ xuống hai vai, không biết ông đang bực tức hay ngượng ngùng, nhưng vẻ thiểu não thì lộ rõ.
Ít lâu sau, nhân cơ hội sang Pháp dự hội báo l’Humanité thường niên của đảng cộng sản Pháp, ông Bùi Tín xin tị nạn ở lại Pháp. Cuối năm 1990, ông đã trình bày một cách có hệ thống quan điểm của mình trong bài trả lời được phát nhiều kỳ trên nền tảng phát thanh của BBC Việt ngữ. Tôi có cơ hội trực tiếp theo dõi, nghe ông Bùi Tín trả lời phỏng vấn của BBC vào thời điểm ấy. Thật ra, trước đó ở trong nước đã có nhiều người từng nói về những điều ông Bùi Tín nêu ra, như các ông Trần Xuân Bách, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hộ, Phan Đình Diệu… Bùi Tín chỉ là người khẳng định quan điểm này một cách công khai và có hệ thống trước hội nghị trung ương, đồng thời là người đầu tiên đưa nó lên diễn đàn truyền thông của phương Tây.
Năm 1989, nhân dịp đi công tác ở Bắc Triều Tiên, bà Vũ Kim Hạnh, lúc đó là tổng biên tập báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh, đã viết một bài bút ký miêu tả sinh động tệ sùng bái cá nhân ở đất nước này đối với lãnh tụ Kim Nhật Thành. Tờ Tuổi Trẻ đăng bài bút ký của bà vừa phát hành thì Bắc Triều Tiên lập tức gửi công hàm phản đối Việt Nam bôi nhọ lãnh tụ và nhân dân họ.
Cuối năm đó, trong cuộc hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động báo chí do ông Đào Duy Tùng chủ trì, chuyện phản ứng của Bắc Triều Tiên được đem ra mổ xẻ. Ông Hà Xuân Trường, ủy viên trung ương đảng, tổng biên tập tạp chí Cộng sản xin hiến kế. Ông Trường cho rằng, sở dĩ Bắc Triều Tiên có cớ phản ứng bài báo của Kim Hạnh là do cơ chế quản lý báo chí của đảng ta: “Báo là công cụ của đảng, báo nói tiếng nói của đảng”. Để tránh bị phản ứng kiểu này, đảng nên thay đổi cơ chế quản lý báo chí: Đảng lãnh đạo báo chí, nhưng mỗi tờ báo có tiếng nói riêng của mình, chứ không phải chỉ nói tiếng nói của đảng”…
Hình như ông Trường chưa nói hết ý mình nhưng tiếng đập bàn khá mạnh của ông Tùng đã cắt ngang lời ông. Ông Tùng với vẻ mặt giận dữ, cố nén, gằn từng tiếng: “Đồng chí phụ trách cơ quan lý luận của đảng, chẳng lẽ đồng chí quên rằng báo chí là công cụ của đảng là một vấn đề có tính nguyên tắc? Tôi xin nhắc lại cho tất cả các đồng chí phải ghi nhớ: Báo chí là công cụ của đảng, nói tiếng nói của đảng. Nguyên tắc đó là bất di bất dịch, không bao giờ được phép thay đổi, không có đổi mới ở chỗ này!”.
Ông Hà Xuân Trường đỏ bừng mặt, im lặng. Ông Đào Duy Tùng hạ giọng: “Vấn đề của chúng ta là phải chọn những người có trình độ chính trị vững vàng làm tổng biên tập để không phạm phải những lỗi quá ấu trĩ”. Ông Hà Xuân Trường im lặng suốt buổi họp còn lại. Trước đây, ông Trường đã một lần bị hụt chân khi cùng với các ông Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Nguyễn Kiến Giang… vì tán thành quan điểm “xét lại hiện đại” của tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushchev sau đại hội 20 của đảng này. Tất cả các ông kia đều phải vào tù, chỉ riêng ông Hà Xuân Trường lần ấy vì mau mắn xin tự kiểm điểm nên được đảng cho qua.
Nhưng lần này đảng không bỏ qua cho ông. Tại đại hội toàn quốc lần thứ 7 đảng cộng sản Việt Nam, mặc dù còn trẻ khỏe hơn nhiều người khác, nhưng ông Hà Xuân Trường đã bị cất chức, không được bầu vào Ban Chấp hành trung ương và phải trao lại chiếc ghế tổng biên tập tạp chí Cộng sản cho ông Hà Đăng (tức Đặng Ha), dù xét về trình độ lý luận chính trị thì ông Hà Đăng không thể bằng ông Hà Xuân Trường.
Bà Vũ Kim Hạnh sau đó lại phạm một lỗi mới không thể tha thứ, đó là đưa lên Tuổi Trẻ một tin rất cũ: Cụ Hồ đã từng có vợ. Toàn thế giới đã biết chuyện này, nhưng người Việt Nam chưa được phép biết. Lần này, bà bị cách chức tổng biên tập và bị nhận luôn “thẻ đỏ”: Cấm hành nghề báo.
Những sự thật dẫn ra trên đây không chỉ là chuyện bếp núc hậu trường của báo chí chính thống ở Việt Nam mà chúng là những bằng chứng cho thấy bản chất thực sự của cái gọi là “báo chí cách mạng”. Đó không phải là một nền báo chí đúng nghĩa, mà là một công cụ tuyên truyền thuần túy, vận hành theo nguyên tắc “tính đảng” từng được thiết lập ở Liên Xô để kiểm soát toàn bộ tư tưởng.
Trong các ví dụ trên, điều đáng chú ý là không ai bị quy kết vì vi phạm nghiệp vụ hay đạo đức báo chí. Tất cả đều bị xem là “sai” chỉ vì đã vượt quá giới hạn tư tưởng được đảng cộng sản cho phép. Ông Bùi Tín đưa ra quan điểm về đa nguyên, bà Vũ Kim Hạnh mô tả chế độ sùng bái cá nhân ở Bắc Triều Tiên, ông Hà Xuân Trường đề xuất cải tiến cơ chế quản lý báo chí. Tất cả những phát biểu này, dù ôn hòa và có lý, đều bị trấn áp vì bị xem như mối đe dọa đối với quyền lực của đảng.
Những sự kiện ấy cho thấy báo chí ở Việt Nam không hề là một không gian tự do của tư tưởng và phản biện. Báo chí chỉ được phép tồn tại trong vai trò phát ngôn cho đảng, không đại diện cho công luận hay quyền được biết của nhân dân. Mọi sáng kiến cá nhân dù nhằm cải thiện chất lượng thông tin đều có thể trở thành lỗi chính trị. Vì vậy, “báo chí cách mạng” không thể được xem là báo chí theo nghĩa thông thường, mà là một bộ phận trong cấu trúc tư tưởng do đảng kiểm soát toàn bộ. Trong không gian ấy, sự thật không được tìm kiếm mà được quy định sẵn.
𝐕𝐢ệ𝐭 𝐍𝐚𝐦 𝐯à đ𝐢ề𝐮 𝟏𝟗 𝐂ô𝐧𝐠 ướ𝐜 𝐈𝐂𝐂𝐏𝐑 – 𝐤𝐡𝐨ả𝐧𝐠 𝐜á𝐜𝐡 𝐠𝐢ữ𝐚 𝐜𝐚𝐦 𝐤ế𝐭 𝐪𝐮ố𝐜 𝐭ế 𝐯à 𝐡𝐢ệ𝐧 𝐭𝐡ự𝐜 𝐛á𝐨 𝐜𝐡í 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐧ướ𝐜
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa dân chủ theo cách thật giản dị nhưng khá sâu sắc, đó là: “Dân chủ là người dân được mở miệng”.
Đó chính là tự do ngôn luận, là điều mà cách đây hơn 150 năm, Robert Lowe, một chính khách người Anh, đã diễn giải cụ thể khi nói về sự cam kết, tính minh bạch của chính phủ và quyền được nói lên sự thật của dân chúng: “Chúng ta nhất định phải nói lên sự thật, đúng như chúng ta thấy, không sợ mọi hậu quả, nhất định không cung cấp chỗ ẩn náu thuận tiện cho những hành vi bất công hay áp chế mà phải lập tức giao chúng cho sự phán xét của thế giới”. (We must speak the truth, as we see it, and without fear of the consequences. We must not provide a convenient refuge for acts of injustice or oppression, but must bring them immediately under the judgment of the world).
Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam độc lập đã ghi nhận tinh thần đó.
Vậy thì tại sao thực tế vận hành của cái gọi là báo chí cách mạng Việt Nam ngày nay lại không phải như vậy? Tại sao đến giờ vẫn cứ tiếp tục rập khuôn theo mô hình báo chí phản thông tin của Lenin mà chính đồng bào Nga của ông cũng đã kiên quyết từ bỏ?
Tại nhiều cuộc họp của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, hàng chục đại diện các quốc gia nhiều lần đề nghị Việt Nam thực hiện một phần, hoặc phù hợp, hoặc trùng khớp với điều 19 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights – ICCPR), như: gia tăng sự độc lập của truyền thông, cho phép ra báo tư nhân, dỡ bỏ hạn chế internet…, tất cả đều bị Việt Nam bác bỏ, trong khi Việt Nam là quốc gia đã ký cam kết gia nhập Công ước quốc tế này từ ngày 24 tháng 9 năm 1982.
Điều 19 của Công ước ICCPR ghi rõ:
1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những điều quy định tại khoản 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn đến một số hạn chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết để:
– Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
– Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng.
Điều 19 có gì đáng sợ? Tôi thấy nó rất cao quý, tin ở con người, tôn trọng con người và tạo điều kiện cho con người đóng góp trí tuệ cho cuộc sống. Đảng và nhà nước Việt Nam luôn luôn hô hào tìm những biện pháp “đi trước đón đầu” trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, trong khi đó lại từ chối song hành với những vấn đề của dân chủ, nhân quyền, không chấp nhận thực hiện một nền báo chí tự do – điều mà Thomas Jefferson đánh giá là “công cụ tốt nhất cho việc mở mang trí tuệ của con người, nâng con người lên trở thành có lý trí, phẩm hạnh và mang tính xã hội” (The press is the best instrument for enlightening the mind of man, and improving him as a rational, moral, and social being). Thomas Jefferson, tổng thống thứ ba của Hợp Chúng Quốc, tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, được Hồ chủ tịch trích dẫn, là người có niềm tin mãnh liệt vào tầm quan trọng của tự do báo chí trong việc nuôi dưỡng một công dân có hiểu biết và giác ngộ, thúc đẩy tiến bộ xã hội và phát triển cá nhân.
Việc Việt Nam tham gia Công ước ICCPR không chỉ là một động tác thủ tục về mặt đối ngoại mà kéo theo một hệ quả pháp lý mang tính ràng buộc rõ rệt: Nhà nước phải nội luật hóa các điều khoản của công ước vào hệ thống pháp luật quốc gia và phải thể hiện thiện chí thực thi các quyền đã cam kết bảo đảm. Điều này đặc biệt đúng đối với điều 19, vốn được xem là một trong những trụ cột căn bản của tự do dân chủ hiện đại. Khoản 3 của điều 19 có nêu rõ các ngoại lệ (như an ninh quốc gia, đạo đức công cộng…), nhưng theo chuẩn mực quốc tế, những ngoại lệ ấy phải được diễn giải theo hướng chuẩn xác hóa, cụ thể hóa, không thể bị lạm dụng để làm triệt tiêu hoàn toàn quyền tự do ngôn luận.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, toàn bộ logic của quyền này đã bị đảo ngược. Không chỉ không có báo chí tư nhân mà toàn bộ hệ thống truyền thông đều do đảng cộng sản lãnh đạo trực tiếp, với Bộ Chính trị giữ quyền kiểm soát định hướng và Ban Tuyên giáo đóng vai trò “tổng biên tập tối cao”. Quyền tự do biểu đạt trở thành một đặc quyền được cấp phát có điều kiện, thậm chí có thể bị hình sự hóa bất cứ lúc nào thông qua những điều luật mơ hồ như “lợi dụng quyền tự do dân chủ” (điều 331, Bộ luật Hình sự), hay “tuyên truyền chống nhà nước” (điều 117). Điều này không chỉ khiến Việt Nam đi ngược lại với tinh thần và nghĩa vụ quốc tế theo ICCPR, mà còn làm chệch hướng toàn bộ nền tảng pháp quyền: Thay vì luật bảo vệ quyền con người khỏi sự tùy tiện của nhà nước, thì ở đây, quyền con người phải “phù hợp” với sự định đoạt độc quyền của nhà nước.
Khoảng cách giữa cam kết và thực thi ở đây không chỉ là sự chênh lệch về chính sách, mà là sự phủ nhận mang tính hệ thống đối với ý niệm về quyền – một khái niệm hàm chứa sự bất khả nhượng, không thể bị biến thành công cụ điều kiện hóa lòng trung thành chính trị. Việt Nam vẫn báo cáo định kỳ với Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc và luôn khẳng định đã bảo đảm tự do ngôn luận “phù hợp với điều kiện đất nước”. Nhưng chính cách diễn giải mơ hồ “phù hợp với đặc thù quốc gia” ấy đã biến Công ước quốc tế ICCPR thành một văn bản tượng trưng, không có hiệu lực ràng buộc thực tế. Và như thế, cam kết không còn là cam kết mà chỉ là hành động xã giao trên bàn ngoại giao, hoàn toàn rỗng nghĩa trước hiện thực đời sống của hàng triệu người dân vốn không có quyền được “mở miệng” như cách chủ tịch Hồ Chí Minh từng định nghĩa dân chủ.
“Một nền báo chí tự do có thể mang lại những điều tốt đẹp hoặc tệ hại. Nhưng chắc chắn, nếu không có tự do báo chí thì sẽ chẳng còn gì khác ngoài sự tồi tệ” (La presse libre peut sans doute être bonne ou mauvaise, mais assurément, sans la liberté, elle ne sera jamais autre chose que mauvaise). Câu nói này là của Albert Camus, nhà văn, nhà triết học, nhà báo hiện sinh cánh tả nổi tiếng của Pháp. Nếu đảng cộng sản thực sự tin rằng mình đang nắm giữ chân lý và hành động một cách minh bạch trước nhân dân thì không có lý do gì để né tránh một nền báo chí tự do.

Việt Nam xếp hạng 173 trên 180 quốc gia theo Ký giả không biên giới (Reporters sans frontières)
Chính tự do báo chí là phép thử chân thực nhất cho sự chính danh và liêm chính của bất kỳ thể chế nào. Đó là nơi quyền lực được soi chiếu, là cơ sở để người dân có thể đặt niềm tin vào nhà nước không phải bằng tuyên truyền, mà bằng sự kiểm chứng công khai và độc lập. Một nền báo chí tự do và tiến bộ không chỉ phản ánh mức độ trưởng thành của xã hội mà còn là thước đo phẩm giá và trình độ văn minh của chính quyền. Trái lại, thứ báo chí bị kiểm soát toàn diện, vận hành như cánh tay nối dài của bộ máy tuyên giáo, dù có được gọi bằng cái tên mỹ miều là “báo chí cách mạng” thì rốt cuộc vẫn chỉ là một hình thức báo chí què quặt: Nói nhiều nhưng không nói sự thật, tồn tại nhưng không phản biện, hiện diện khắp nơi nhưng lại vắng mặt ở nơi cần tiếng nói độc lập nhất.
Nguồn: baotiengdan.com