Quy hoạch năng lượng và quy hoạch tương lai của đất nước (Chu Tuấn Anh)

Đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam đã phá sản vì tham nhũng, vì đạo đức chính trị, và lâm vào khủng hoảng về đường lối. Trong cuộc khủng hoảng đó, có cả cuộc khủng hoảng về tương lai đất nước. Người Việt Nam đang không biết đất nước Việt Nam sẽ đi về đâu. Nhưng chắc chắn họ không có niềm tin vào những miếng bánh vẽ của Tô Lâm và Phạm Minh Chính. Trong lúc này, đất nước chúng ta cần một đảm bảo dân chủ hơn bao giờ hết.


Vào ngày 17/1, tôi đã trình bày một thất bại lớn của đảng Cộng Sản Việt Nam trong triển khai quy hoạch và đảm bảo an ninh năng lượng tại Việt Nam trong bài viết “Kế hoạch phát triển điện 7 (PDP7), một giai đoạn cần được nhìn lại“, với lý do chính là tham nhũng sẽ làm phá sản mọi kế hoạch cải tổ và phát triển đất nước. Cho đến những ngày gần đây, chúng ta lại nhận thêm nhiều tin xấu về triển vọng tiếp tục phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam. Cụ thể là ngày hôm nay, một loạt các tập đoàn và nhà đầu tư đã gửi một kiến nghị thư đến chính phủ cho rằng họ có thể lâm vào cảnh phá sản và thiệt hại đến 13 tỷ đô la vốn đầu tư nếu chính quyền bỏ cơ chế giá ưu đãi (FIT/Fit-in tariffs) và xem xét lại điều kiện nhận giá FIT ngay cả những dự án đã đi vào vận hành. Điều này được cho là sẽ làm xói mòn khung pháp lý và niềm tin của nhà đầu tư với ngành công nghiệp này của Việt Nam. Không chỉ gây thiệt hại với những vốn đầu tư trước đó, nó còn chặn đứng những dự định đầu tư vào ngành công nghiệp tái tạo đầy triển vọng của Việt Nam trong tương lai.

Đầu tiên, chúng ta phải khẳng định rằng năng lượng tái tạo là con đường phát triển chủ đạo cho ngành công nghiệp năng lượng và gần như là bắt buộc đối với các quốc gia phát triển và đang phát triển. Người ta nói nhiều về sự bất ổn của ngành công nghiệp điện tái tạo khi  nắng và gió chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian ngắn hạn trong ngày; do đó năng lượng tái tạo có thể ảnh hưởng đến tính điều độ của mạng lưới điện, khi thì thiếu điện và có những lúc thì thừa tải điện. Vì thế, năng lượng tái tạo cũng trông đợi vào những công nghệ hỗ trợ như công nghệ điện phân hydrogen từ các turbine gió và tấm panel mặt trời. Còn trước mắt thì vẫn phải duy trì những cục pin lithium lớn để trữ điện trong thời gian các nhà máy điện nắng và điện gió không thu hoạch được. Thế nhưng, khó khăn về công nghệ cũng không phải là một lập luận để người ta từ bỏ điện tái tạo vì thế giới đã có cam kết Paris về Biến đổi Khí hậu, trong đó các quốc gia phải giảm thải để cùng nhau giữ nhiệt độ toàn cầu không tăng quá 2 độ (hoặc ở điều kiện lý tưởng là 1.5 độ) vào năm 2030 (cụ thể là để thực hiện được điều này, họ phải giảm phát thải tới 43% vào 2030); và một cam kết khác là đạt hiệu số phát thải – giảm thải bằng 0 (Net-Zero Emissions). Dù nhiều nhà khoa học nói rằng có thể cam kết Paris về Biến đổi Khí hậu có khả năng không thực hiện được, điều đó không có nghĩa là các quốc gia được phép từ bỏ những cố gắng phi thường về giảm phát thải. Cam kết này được cụ thể hóa bằng kế hoạch về biến đổi khí hậu của từng quốc gia và trở thành một văn bản hướng dẫn quan trọng trong các hoạt động đầu tư và phát triển trên toàn thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Do đó, việc gia tăng sử dụng than đá và năng lượng hóa thạch, tuy được một số người coi là “ổn định” theo cách hiểu hạn hẹp, nhưng các quy chuẩn kinh doanh và hợp tác quốc tế sẽ không cho phép các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực, từ điện tử, da giày, dược phẩm đến thực phẩm, hợp tác với các nền kinh tế có mức phát thải cao. Vì vậy, việc đốt thêm năng lượng hóa thạch không mang lại bất kỳ sự ổn định nào. Mặt khác, thì công nghệ điện than và giá than cũng đang rất cao và than có thể ngày càng khan hiếm. Việt Nam cũng phải nhập khẩu than và do đó cũng không có tự chủ năng lượng nếu phát triển thêm điện than. Tôi nghĩ điều này cũng không còn tranh cãi vì trong các văn bản quy hoạch năng lượng, chủ trương đầu tư của chế độ cũng không còn nhắc tới việc đầu tư thêm vào ngành công nghiệp than.

Gần đây, Hoa Kỳ đã rút khỏi một cam kết hỗ trợ Việt Nam và Indonesia 3 tỷ đô la để phát triển năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, sự kiện này chỉ đánh dấu rằng chính quyền các nước đang phát triển vẫn sẽ phải tiếp tục đầu tư và phát triển ngành năng lượng trong điều kiện khó khăn hơn về nguồn vốn cũng như sự hỗ trợ từ thế giới phát triển. Điều đó không có nghĩa là họ có thể quay lại sử dụng năng lượng hóa thạch.

Như tôi đã trình bày nhiều lần, ngay cả một xu hướng đúng đắn và có lợi như chuyển đổi xanh cũng cần được thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là cần chuẩn bị kỹ lưỡng và cân nhắc cẩn trọng trước khi đầu tư, nhằm đảm bảo tương lai bền vững cho đất nước. Dù là vốn đầu tư công hay tư nhân, nguồn tiền cũng phải được sử dụng một cách thận trọng trong một thể chế trong sạch, không tham nhũng, để tránh lãng phí những nguồn lực quý giá của quốc gia. Nhưng tham nhũng đã là lý do lớn nhất khiến cho Kế hoạch Phát Triển Điện 7 hay PDP7 phá sản và thất bại. Hệ thống điện lực Việt Nam là một hệ thống độc quyền được điều hành bởi EVN. Các nhà đầu tư, dù là những doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài, bị bắt buộc phải lệ thuộc vào các mối quan hệ trong chính quyền như Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu Tư, Bộ Tài nguyên & Môi trường, hay EVN để có được quyền phát triển và xây cất các dự án. Do đó, khi Quy hoạch điện VII được trình và triển khai, thực tế cho thấy rằng càng nhiều dự án được cấp phép và xây dựng, thì số tiền tham nhũng, chi phí “bôi trơn” các cấp và lợi ích nhóm càng gia tăng. Điều này dẫn đến việc các chủ đầu tư đua nhau triển khai các dự án điện gió và điện mặt trời với mức giá FIT ưu đãi cao hơn so với mặt bằng chung của thế giới. Điều này không phải do tác giả bịa đặt hay vu khống chế độ, mà thực tế chính chế độ cũng thừa nhận điều đó thông qua vụ đại án liên quan đến việc bắt giữ 6 cựu cán bộ gây thất thoát 209 tỷ đồng của EVN. Họ cho rằng các bị cáo đã “tạo điều kiện không chính đáng” để các doanh nghiệp hưởng lợi. Đồng thời, cựu Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng cũng bị truy tố vì gây thiệt hại 1.000 tỷ đồng cho EVN.

Tuy nhiên, những sự chuẩn bị về đường truyền tải điện, lưu trữ năng lượng, và phân bổ nguồn điện cho hợp lý đã không được đặt ra. Nhiều nhà máy điện mặt trời và điện gió sau khi xây dựng xong không được phép hoạt động hết công suất do hạn chế về hệ thống truyền tải địa phương. Điều này càng cho thấy rằng chính quyền đã triển khai Quy hoạch điện 7 một cách thiếu minh bạch, khiến nó nhanh chóng trở thành công cụ trục lợi cho các nhóm lợi ích và quan chức tham nhũng, thay vì được thực hiện một cách thận trọng. Mặt khác, EVN là tập đoàn quốc doanh độc quyền trong việc điều phối và vận hành hệ thống truyền tải điện. Trong khi đó, để thúc đẩy phát triển hệ thống truyền tải địa phương, chính phủ hoàn toàn có thể xem xét việc cổ phần hóa ngành công nghiệp điện một cách cẩn trọng và hợp lý. Kỹ nghệ vận hành và điều phối điện đã không còn là một điều gì đó phức tạp chỉ duy nhất nhà nước làm được. Các nhà vận hành tư nhân hoàn toàn có thể tham gia để vận hành mạng lưới điện, xây dựng các đường truyền tải, và mua bán điện một cách cạnh tranh để đẩy nhanh quá trình phát triển ngành công nghiệp điện. Giải tư những gì tư nhân có thể làm được cũng là một định hướng lớn trong dự án Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai mà chúng tôi đã trình bày, và chế độ đã thất bại trong Kế hoạch Phát triển Điện 7 một phần vì đã không thực hiện định hướng này.

Hệ quả rõ nhất mà chúng ta thấy là sau gần một thập kỷ phát triển điện tái tạo một cách ồ ạt (từ những năm 2014 cho tới 2022), đất nước chúng ta cũng không có một đảm nào về an ninh năng lượng. Chúng ta có một hệ thống điện lưới độc quyền bởi một tập đoàn tham nhũng EVN, một hệ thống thiếu ổn định, và không phân bổ nguồn điện phát triển đồng đều đến các vùng và lãnh thổ trên đất nước. Tất nhiên, tôi không bao giờ phản đối những bước tiến lớn trong phát triển năng lượng tái tạo, nhưng quá trình này cần được tính toán kỹ lưỡng và thực hiện từng bước một cách thận trọng. Chẳng hạn, chính quyền đã cho phép phát triển những công nghệ lạc hậu do các hãng thiết bị Trung Quốc xuất khẩu trong bối cảnh nước này dư thừa sản xuất, với mức giá ưu đãi một cách thiếu hợp lý – hay nói đơn giản là mua hàng tồn kho với giá cao. Hậu quả là, khi nhận ra rằng những công nghệ này không hoạt động đúng như công suất thiết kế hoặc không đáp ứng được các dự tính ban đầu, họ lại tìm cách hồi tố và thu hồi mức giá FIT đã cam kết với các nhà phát triển. Mặt khác, công nghệ cũng đang thay đổi. Chẳng hạn, người ta sẽ từ bỏ các tấm pin mặt trời silicon và sớm sử dụng vật liệu perovskites cho một hiệu suất cao hơn với một diện tích nhỏ hơn. Tuy nhiên, đằng nào thì một nhà máy điện gió hay điện nắng cũng chỉ có vòng đời từ 20-25 năm từ khi vận hành cho đến lúc giải ráp; cho nên chúng ta vẫn có thể yên tâm khi phát triển trên những công nghệ cũ một cách điều độ và chờ đợi những công nghệ mới. Sự phát triển một cách ồ ạt dựa trên tham nhũng đã làm cho EVN buộc phải mua quá nhiều điện tái tạo và trở nên cạn kiệt về ngân sách (nhất là trong bối cảnh đầu tư đã không đổ vào ồ ạt như chế độ nghĩ), trong khi những dự án mới cần thiết lại không còn đủ nguồn vốn và lực để triển khai. Người ta nhìn nhận thời kỳ đỉnh điểm năm 2022, Việt Nam đạt 13.2% sản lượng điện mặt trời và điện gió trên toàn hệ thống; cao hơn mức trung bình 10% thế giới, và cao hơn hẳn Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Indonesia, và Thái Lan. Và cũng trong năm đó, Việt Nam áp đảo ở mức 69% sản lượng điện tái tạo tại ASEAN. Và đến năm 2023, sản lượng điện nắng và gió ở Việt Nam đạt 25%. Những con số đó đáng khích lệ, nhưng nó không phản ánh tình trạng kiệt quệ vì tham nhũng và vì một sự quy hoạch cẩu thả của chính quyền Việt Nam và tập đoàn quốc doanh EVN. Tại sao chính phủ ông Phạm Minh Chính muốn “hồi tố” các dự án điện nắng, điện gió? Có thể đơn giản vì họ thấy rằng họ phải mua một cái giá khá đắt trong khi đó năng lượng tái tạo đã rẻ hơn nhiều. Và cũng có một lý do khác là có thể họ đã cạn kiệt nguồn vốn để mua điện từ các nhà phát triển theo cam kết.

Thật đáng buồn khi tôi phải kết luận rằng, trong thời gian tới, chúng ta sẽ chứng kiến Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Bangladesh bùng nổ trong phát triển năng lượng tái tạo, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của vốn FDI. Trong khi đó, ngành công nghiệp năng lượng của chúng ta đang rơi vào tình trạng kiệt quệ do một thể chế tham nhũng, cơ chế độc quyền và quy hoạch cẩu thả. Hậu quả là ngành này không chỉ suy yếu mà còn mất dần sự quan tâm từ các nhà đầu tư. Những cánh quạt gió và tấm panels mặt trời sẽ chết lặng ở những miền duyên hải, nơi mà chúng ta có thể phát triển rất nhanh nếu có một tương lai dân chủ như dự án Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đã trình bày.

Ngành công nghiệp năng lượng và nhà máy điện dù sao cũng chỉ là một phần ảm đạm của toàn bộ bức tranh phát triển của Việt Nam. Trong tình trạng kiệt quệ như vậy, chính quyền Cộng sản Việt Nam vẫn bất chấp đặt ra mục tiêu tăng trưởng 7.5%. Quả thực, đảng Cộng sản Việt Nam đang đi xa rời thực tế hơn bao giờ hết.

Trong cơn tuyệt vọng, họ lại đề xuất xây dựng các nhà máy điện hạt nhân và đã lựa chọn được tám địa điểm để triển khai. Cụ thể, có hai địa điểm tại Ninh Thuận, một tại Bình Thuận, một tại Bình Định, một tại Hà Tĩnh và hai tại Quảng Ngãi, với mục tiêu phát triển từ 4 đến 6 GW điện hạt nhân. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã phản đối phát triển điện hạt nhân, và bản thân tôi cũng đã trình bày nhiều lần tại sao không thể phát triển điện hạt nhân vì những lý do về rác thải hạt nhân, thảm họa an toàn khiến lãnh thổ đất nước bị chia cắt thông qua các bài viết Không thể bắt đầu Kỷ Nguyên mới bằng cách lặp lại một thảm họa cũ của đất nước!Kiên quyết làm điện hạt nhân: Quá tối tăm và ngu muội (!?). Nhưng dường như, những dự án này chỉ là những chiếc bánh vẽ viển vông khi nhà cung cấp công nghệ lớn nhất cho chế độ là Nga đã không còn khả năng hỗ trợ Việt Nam về công nghệ điện hạt nhân. Và chế độ cũng không còn nguồn tiền để phát triển điện hạt nhân trong một bối cảnh khủng hoảng kinh tế và những khó khăn bủa vây như Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên và thường trực Nguyễn Gia Kiểng đã nhiều lần trình bày. Họ đang vẽ ra miếng bánh dự án điện hạt nhân, đồng thời viện dẫn những lý do liên quan đến sự thiếu ổn định của công nghệ tái tạo để biện minh cho mô hình phát triển đất nước đầy tham nhũng, cẩu thả, và những thất bại mà họ đã gây ra.

Tôi không phải là một chuyên gia năng lượng đúng nghĩa. Tôi cũng ý thức được các vấn đề phức tạp của bài toán năng lượng và sự hạn chế của các giải pháp công nghệ. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là chúng ta phải thiết kế một quy hoạch chặt chẽ và triển khai một cách thận trọng, đảm bảo sử dụng nguồn vốn – dù là công hay tư – một cách có trách nhiệm để tránh lãng phí, đồng thời đóng góp vào sự ổn định cho tương lai đất nước và an ninh năng lượng. Bên cạnh đó, cần chuẩn bị những điều kiện cơ bản để thu hút vốn đầu tư khi nền kinh tế dần chuyển sang mô hình giảm phát thải. 

Chúng ta hoàn toàn có thể đạt mức tăng trưởng trên 15% nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và đường bờ biển dài. Tuy nhiên, đáng tiếc thay, chính quyền đã làm suy yếu ngành công nghiệp của đất nước đến mức không còn khả năng tiếp tục triển khai các quy hoạch mới. Với tình trạng hiện nay, họ buộc phải thừa nhận sự thất bại của mình. Đó không phải là một thất bại trong việc triển khai kỹ thuật, mà là thất bại của một chế độ tham nhũng và những con người chỉ biết trục lợi, tàn phá thiên nhiên với cái giá phải trả là tương lai và triển vọng của đất nước bị đe dọa.

Đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam đã phá sản vì tham nhũng, vì đạo đức chính trị, và lâm vào khủng hoảng về đường lối. Trong cuộc khủng hoảng đó, có cả cuộc khủng hoảng về tương lai đất nước. Người Việt Nam đang không biết đất nước Việt Nam sẽ đi về đâu. Nhưng chắc chắn họ không có niềm tin vào những miếng bánh vẽ của Tô Lâm và Phạm Minh Chính. Trong lúc này, đất nước chúng ta cần một đảm bảo dân chủ hơn bao giờ hết. Và Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chắc chắn là một đảm bảo dân chủ lớn nhất của đất nước Việt Nam vì chúng tôi có một dự án chính trị bài bản. Và những tư tưởng và định hướng lớn của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã ngày càng chứng tỏ sự đúng đắn theo thời gian. Chúng tôi đã không ngừng tranh đấu vì tương lai của đất nước Việt Nam, dù có những thời điểm cả phong trào đấu tranh chống cộng vẫn còn bối rối và nhìn về quá khứ. Và một trong những tư tưởng đúng mà đất nước chúng ta đang cần chính là tinh thần hòa giải dân tộc!

Chu Tuấn Anh

(10/03/2025)

About the author