V. Tại hải ngoại sau 1975
Theo số liệu thống kê của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, 5 năm sau ngày 30-4-1975, đã có hơn 675.000 người gốc Hoa trong tổng số 900.000 người Việt rời khỏi Việt Nam. Sau đó là chương trình ODP, người gốc Hoa được ra đi dễ dàng hơn người Việt Nam nâng tổng số người Việt gốc Hoa tại hải ngoại lên trên 1 triệu người. Số một triệu người này sinh con đẻ cái tại các quốc gia định cư phương Tây càng làm tăng hơn nữa tổng số người Việt tại hải ngoại. Nói chung người Việt gốc Hoa chiếm khoảng 70% dân số Việt kiều hải ngoại và đa số đã mang quốc tịch của quốc gia định cư.
[Chúng ta thường nói hiện có hơn 2 triệu người Việt tại hải ngoại, trong đó phải kể khoảng 1,4 triệu là người gốc Hoa. Đó là lý do mà nhiều người hay đoàn thể tranh đấu trách móc cộng đồng người Việt hải ngoại ù lì không tích cực trong những vận động đòi dân chủ tại Việt Nam. Cộng đồng gốc Hoa tị nạn không thích sinh hoạt chính trị mà chỉ chuyên chú sinh hoạt kinh doanh và văn hóa].
Cộng đồng người Việt gốc Hoa tại phương Tây vẫn sống gần với cộng đồng Việt kiều hơn với người phương Tây. Người Triều Châu và Quảng Đông chiếm đa số trong cộng đồng người Hoa hải ngoại. Thêm vào đó, có một sự kết hợp tự nhiên giữa những người gốc Hoa sinh sống tại Lào và Campuchia (đa số là người Tiều và người Quảng) trong một số ngành dịch vụ như may mặc, nhà hàng, tạp hóa và thực phẩm. Nhìn chung, cộng đồng người Hoa có đời sống sung túc hơn các cộng đồng ly hương Đông Dương cộng lại, và người phương Tây đánh giá toàn bộ sinh hoạt kinh tế của cộng đồng Đông Dương tị nạn qua sinh hoạt của người Hoa.
Tại hải ngoại, cộng đồng người Hoa vẫn duy trì những đường dây thương mại kín giữa họ với nhau. Hệ thống thông tin liên lạc của người Hoa hải ngoại rất kịp thời và chính xác : những biến chuyển kinh tế tại Đông Dương, ASEAN, Trung Quốc hay tại Mỹ, Úc, Pháp tất cả những doanh nhân gốc Hoa hải ngoại đều hay biết để kịp thời chấn chỉnh giá cả hay nguồn hàng hóa xuất nhập. Tại nhiều thành phố lớn, họ phát hành báo chí, tài liệu, thành lập nhiều đài phát thanh và truyền hình thương mại để phổ biến tin tức và quảng cáo hàng hóa. Tại những nơi đông người Hoa cư ngụ, mỗi cộng đồng địa phương thành bang hội riêng của mình : bang Quảng Đông, bang Triều Châu, bang Phúc Kiến, bang Hải Nàm…
Tại Bắc Mỹ
Cộng đồng người Hoa Đông Dương đa số sống tập trung tại bờ biển Thái Bình Dương, phía tây Hoa Kỳ và Canada. Những người này không muốn hòa nhập vào cộng đồng người Hoa có sẵn trước đây (từ thế kỷ 19 đến năm 1949) như tại New York, San Francisco (Hoa Kỳ) hay Toronto, Montréal, Vancouver (Canada). Người Hoa Đông Dương tổ chức lại phương thức kinh doanh : thị trường và khách hàng chính của họ là người Đông Dương tị nạn (Việt-Miên-Lào) và Mễ. Nhiều khu thương mại rộng lớn được thành lập với các danh xưng Hoa-Việt, có ghi chú thêm các tiếng Thái, Khmer và Lào. Nổi tiếng nhất là khu vực Tiểu Sài Gòn (Little Saigon) tại California. Tuy mang tiếng là Tiểu Sài Gòn, nhưng thật ra là Tiểu Chợ Lớn mới đúng : khách hàng là người Việt chủ nhân là người Hoa.
Theo Cục thống kê Liên Bang Hoa Kỳ, từ 1982-1987, số cơ sở kinh doanh do người Mỹ gốc Việt (sau 1975) làm chủ tăng lên gấp 4 lần (415%). Năm 1982 có 4.989 cơ sở, năm 1987 lên 25.671 (hơn 3/4 của người Việt gốc Hoa). Tổng doanh số của những cơ sở này lên tới 1,4 tỷ USD. Sự gia tăng số xí nghiệp người Mỹ gốc Việt là do sự gia tăng dân số Việt Nam tị nạn : năm 1980 có 261.729 người, năm 1990 tăng lên 614.546 (135%). Những người tị nạn được nhập cư vào Hoa Kỳ trong những năm 1979-1981, đa số là người gốc Hoa vượt biên “bán chính thức” làm gia tăng số xí nghiệp của thành phần “tị nạn Việt Nam”.
Về nguồn vốn kinh doanh 40% cơ sở do tiền dành dụm, 25% do vay mượn, 15% khác do sự giúp đỡ của thân nhân hay bằng hữu. Riêng tại Quận Cam (Orange County), nơi người Việt định cư đông nhất, có khoảng 1.500 cơ sở nhỏ kiểu gia đình. Khoảng 2/3 những xí nghiệp này là những cửa hàng bán lẻ hoặc chuyên về dịch vụ. Gần 400 cơ sở có thuê người làm công, số còn lại chỉ dùng người trong gia đình (cha mẹ, anh chị em, con cái). Tại California, ở phố Bolsa Los Angeles (còn gọi là Little Saigon) số cơ sở của người Việt gốc Hoa tị nạn đông và lớn hơn những cơ sở của người Việt thuần túy, cách trình bày và trang trí cửa hàng người Hoa sang trọng và lịch sự hơn cửa hàng người Việt. Chủ nhân các tiệm lớn tại trung tâm thương mại Phúc Lộc Thọ đa số là người Việt gốc Hoa, những người này cho những người Mỹ gốc Việt thuê lại mặt bằng để kinh doanh. Về dịch vụ, cơ sở của người gốc Hoa cũng đông hơn : thẩm mỹ viện, văn phòng luật sư, cố vấn địa ốc, phòng khám bệnh, phòng chữa răng, bảo hiểm, giải trí. Những nơi khác (miền Nam, miền Đông Hoa Kỳ và Canada), xí nghiệp của người gốc Hoa chiếm đa số. Doanh vụ và tầm vóc kinh doanh của người gốc Hoa vượt trội người Việt thuần túy.
Người Hoa tị nạn phần lớn đã bỏ hẳn gốc tích người Việt tị nạn gốc Hoa, hiện nay họ là người Mỹ gốc Hoa hay người Canada gốc Hoa. Tuy nhiên gần đây với phong trào về Việt Nam, những công dân (Việt gốc Hoa) Mỹ, Canada này lại là những người tiên phong trở về du lịch và làm ăn tại Việt Nam với sự tiếp tay của thân nhân còn ở trong nước hay của các nhóm và gia đình Hoa kiều Đông Nam Á khác. Lúc ra đi những người này mang theo một phần tài sản tuy không nhiều lắm, nhưng cũng đủ góp phần phát triển khả năng thương mại của cộng đồng người Hoa Đông Dương. Trong những chương trình làm ăn lớn (chế biến thực phẩm : nước ngọt Sasi, soda, mì gói, gia vị), người Hoa Đông Dương được các nhóm Hoa kiều liên quốc lớn hỗ trợ phần tài chánh, đặc biệt là của Đài Loan.
Tại Châu Âu
Theo con số thống kê của chính quyền Pháp, hiện nay tổng số người Việt đã đất Pháp xin tị nạn sau 1975 khoảng 250.000 người. Đa số đã có quốc tịch Pháp, số còn lại hoặc đang làm thủ tục xin quốc tịch hoặc vẫn giữ qui chế tị nạn. Trong số 250.000 này, có hơn 150.000 người là người Việt gốc Hoa, đa số đã có quốc tịch Pháp. Tại Anh Quốc, người Việt gốc Hoa đông hơn người Việt thuần túy, đa số là những người đến từ Hồng Kông. Tại Đức, Bỉ, Hòa Lan người Việt thuần túy đông hơn người Việt gốc Hoa.
Tại Châu Âu, người Việt gốc Hoa bỏ bản thể Việt Nam để mang bản thể Châu Âu, nhưng thị trường khai thác kinh doanh chính của họ vẫn là cộng đồng người Đông Dương tị nạn và sau này có thêm thành phần khách hàng Châu Phi. Nơi tập trung đông nhất là Pháp vì tại Pháp ít có vấn đề kỳ thị và cộng đồng người Hoa được nâng đỡ rất nhiều. Nơi đây doanh nhân Việt thuần túy thua sút hẳn người Việt gốc Hoa về khả năng lẫn phong cách trong kinh doanh. Nơi nào có đông cư dân gốc Hoa cư ngụ, nơi đó có nhiều cơ sở kinh doanh.
Paris là nơi nổi tiếng có đông người Việt tị nạn nhất, các công ty người Hoa khống chế mạnh mẽ các dịch vụ thương mại : Tăng Frères, Paris Store, Hoa Nam… Tại những thành phố lớn khác (Marseille, Bordeaux, Lyon, Lille…), công ty người Hoa nắm giữ hoàn toàn ưu thế trong thương mại. Tại Bruxelles, Hambourg, Amsterdam và những thành phố lớn Tây Âu, người Hoa khống chế dịch vụ ăn uống, nhà hàng của người Hoa chiếm ngụ những khu phố sang trọng hơn người Đông Dương thuần túy. Một số tư nhân Việt, Khmer, Lào đi bán rong tại những nơi đông người Đông Dương cư ngụ.
Quan sát kỹ sinh hoạt của cộng đồng Đông Dương tị nạn ở những thành phố lớn tại Châu Âu, người ta có thể nhận thấy không có cơ sở lớn nào của người gốc Đông Dương thuần túy, tất cả cơ sở lớn đều do người Hoa làm chủ. Người Việt thích làm công lãnh lương trong các hãng của người Châu Âu hơn làm thương mại. Người Việt nếu có mở cơ sở kinh doanh chỉ tập trung vào dịch vụ văn phòng (tin học, du lịch, kế toán, khám bệnh, chữa răng, sửa chữa cơ khí và ăn uống nhỏ), đa số là cơ sở gia đình. Cơ sở kinh doanh của người Lào, đa số là người Lào gốc Việt, có tầm vóc hơn người Việt và người Khmer thuần túy. Người Lào chuyên về các ngành dịch vụ như tạp hóa, may mặc, gia công nữ trang và buôn bán máy móc điện tử. Người Khmer chuyên về dịch vụ ăn uống và may hàng gia công.
Tại những nơi khác (Châu Úc và Châu Phi)
Châu Phi là lục địa không hấp dẫn người dân Việt, mặc dầu tại những nơi này đời sống của kiều dân Việt Nam có phần sung túc hơn dân cư bản địa. Người Việt tuy đã có mặt tại Châu Phi từ thời Pháp thuộc nhưng đa số vẫn thích làm việc cho các chính quyền thuộc địa Pháp (hành chánh) hơn là mua bán. Sau 1954, một số gia đình Việt kiều mở nhiều cơ sở xuất nhập cảng và thương mại. Sau 1975, nhiều người Việt được đưa đến tị nạn trong một số các quốc gia Châu Phi, thuộc địa cũ của Pháp, nhưng sau đó đều tìm cách tái định cư tại Pháp. Chỉ còn lại một số gia đình gốc Hoa ở lại và tiếp tục làm thương mại, những người này đa số đều mang quốc tịch Pháp. Sinh hoạt chính là dịch vụ : nhà hàng, xuất nhập cảng, gia công nữ trang. Trong những năm 1980, người Việt gốc Hoa tại Châu Phi được một số doanh nhân gốc Hoa khác tại Tây Âu liên lạc và đã trở thành đầu cầu xuất cảng nông phẩm Châu Phi vào Châu Âu để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của cộng đồng người Châu Á ngày càng tăng.
Dân số người Việt gốc Hoa tại Châu Phi không đông nếu so với các kiều dân phương Tây khác (không có số liệu rõ ràng, nhưng theo nhiều nguồn tin của giới kinh doanh Hoa kiều dân số gốc Hoa chỉ độ vài trăm gia đình), nhưng chắc chắn đông hơn kiều dân Việt Nam. Chính quyền Hà Nội có cử nhiều phái đoàn cố vấn chính trị, kinh tế, kỹ thuật (nông nghiệp), thực tập sinh sang các quốc gia Châu Phi công tác, những người này cũng chỉ dành dụm chút ngoại tệ để khi về lại Việt Nam sẽ ghé sang Pháp mua một ít hàng hóa về tặng gia đình hay để bán lại, không ai có ý định ở lại làm ăn lâu dài mặc dầu đều biết đây là vùng đất có thể làm ăn được.
Châu Úc có lẽ là vùng đất hứa của người gốc Hoa nói riêng và cả thế giới Trung Hoa nói chung : đất rộng, dân thưa, tài nguyên dồi dào và gần thế giới Trung Hoa. Từ lâu người Hoa rất muốn tiếp cận với Châu Úc nhưng vì chính sách hạn chế nhập cư người Châu Á vào lục địa của cách chính quyền Úc, rất ít người Hoa nào vào được. Biến cố 1975 là một cơ hội cho người Việt được tị nạn tại Úc. Người Úc chấp nhận cho một dân tộc Châu Á được định cư vĩnh viễn trên lãnh thổ của họ. Đối với người Việt thì đây là dịp được tiếp tục sống với nền văn minh tiến bộ của phương Tây đã có trước 1975, nhưng đối với người Hoa đây là một cơ hội mở được cánh cửa mà từ lâu bị đóng bít. Người Việt gốc Hoa đều thích được tị nạn tại Úc.
Người Việt tị nạn tại Úc tuy đông nhưng không đông hơn người Việt tị nạn gốc Hoa. Úc là vùng đất ưu tiên thứ ba của người Việt tị nạn gốc Hoa chọn làm nơi định cư, sau Hoa Kỳ và Canada. Người Hoa vượt biên bán chính thức trong những năm 1980 đa số đều xin tị nạn vào Úc Đại Lợi. Những người Hoa có mặt từ trước hỗ trợ những đồng hương mới này và kết thành một mạng lưới bang hội chặt chẽ. Sau khi ổn định được chốn định cư, những gia đình gốc Hoa này tập trung hết năng lực vào kinh doanh. Cư dân gốc Hoa đồng bằng sông Cửu Long văn hóa có giới hạn không thể tham gia trực tiếp vào các xí nghiệp của người Úc, đa số tham gia canh tác nông nghiệp, nông phẩm làm ra được bán trên thị trường nội địa, số thặng dư được chế biến thành thực phẩm khô xuất cảng sang Tân Tây Lan và các hải đảo lân cận (Nouvelle Calédonie, Vanatu, Bornéo). Những người được trợ vốn của đồng hương từ Đông Nam Á, thành công hơn, mở công ty, xí nghiệp lớn để xuất nhập cảng hàng hóa ra vào đất Úc.
Chỉ trong hơn mười năm (từ 1980 trở đi), cộng đồng người Hoa tại Úc Đại Lợi đã nắm toàn bộ thị trường tiêu thụ của người Đông Dương tị nạn. Một số doanh nhân người Việt tập trung vào các nghề nhà hàng, dịch vụ văn phòng (kế toán, luật pháp, tin học), bán sách báo, âm nhạc, mỹ phẩm và nữ trang. Một số khác đảm trách việc thu mua nông phẩm của các nông dân gốc Việt ra bán lại cho thương gia gốc Hoa và người Úc. Số còn lại là công nhân, nhân viên của các hãng xưởng của người Úc. Người Campuchia và Lào, ít hơn, làm nghề nông hay làm công nhân, nhân viên các hãng xưởng của người Úc. Người gốc Hoa thì ngược lại, họ chỉ làm việc và nhờ cậy giữa họ với nhau, sống co cụm như tại bất cứ quốc gia phương Tây nào có đông người Hoa. Nhìn chung sinh hoạt của người Đông Dương tị nạn giống như sinh hoạt của người Việt tại Sài Gòn – Chợ Lớn trước 1975, người Hoa làm chủ các hoạt động thương nghiệp, người Đông Dương chỉ đóng vai khách tiêu thụ. Về hoạt động kinh doanh của người tị nạn Đông Dương nếu người Hoa không trực tiếp tham gia thì mới hy vọng thành công. Các dịp lễ lạc lớn (tết Nguyên Đán, Trung Thu) sinh hoạt tại các cửa tiệm người Hoa làm sôi động hẳn đời sống các sắc tộc gốc Châu Á, các thiệp chúc Tết của người Đông Dương được viết bằng chữ Hoa hay chữ Anh.
Sự hiện diện của người Hoa gốc Đông Dương là đầu cầu liên lạc giữa người Hoa Đông Nam Á với thị trường Úc Đại Lợi. Những công ty Hoa kiều Đông Nam Á muốn hiện diện tại Úc Đại Lợi không bằng con đường chính thức đều mượn tên những doanh nhân người Hoa Đông Dương tị nạn. Thật ra chính phủ Úc cũng có chính sách kêu gọi đầu tư quốc tế, nhưng vì là một quốc gia tiến bộ tất cả các hoạt động thương mại đều phải hợp pháp, do đó những thương nhân nhỏ không có khả năng cạnh tranh với những tổ hợp quốc tế lớn phải liên kết với người Hoa gốc Đông Dương để hoạt động. Hơn nữa chính phủ Úc không chấp nhận doanh nhân Hoa kiều kết hợp thành những tổ hợp lớn cạnh tranh với doanh nhân Úc.
Quan hệ giữa người Hoa và cộng đồng người Đông Dương
Việt kiều định cư tại phương Tây, qua trung gian các cửa hàng người Hoa, quen tiêu dùng hàng hóa của Thái Lan, Hồng Kông, Trung Quốc quên dần hàng hóa và khẩu vị của quê hương. Trước đây có những phong trào “chống kinh tài Việt Cộng” khiến những ai có ý muốn mua hàng hóa từ Việt Nam tại các cửa hàng “Việt Cộng” e ngại và càng làm cho hàng hóa của các quốc gia Đông Nam Á, nhất là của Thái Lan, bán chạy hơn, thu nhập các cửa hàng người Hoa cũng nhờ đó tăng cao hơn. Những hành động này chỉ nhắm vào cộng đồng người Việt, cộng đồng người Hoa, Khmer và Lào không bị ảnh hưởng hay không chú ý tới. Càng ngày càng có nhiều người Hoa về lại Việt Nam với nhiều mục đích khác nhau. Có người về thăm thân nhân, người khác về để chuyển ngân lậu hay tìm cơ hội kinh doanh, nhiều người khác về với sứ mạng đại diện một cánh tư bản Hoa kiều nào đó để củng cố chỗ đứng sau này.
Một điều lạ là cửa hàng của người Việt nào kinh doanh hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam thì bị lên án là “kinh tài cho Việt Cộng” và bị tẩy chay. Ngược lại những cửa hàng của người Hoa kinh doanh những món hàng sản xuất tại Việt Nam thì được mọi người ùa vào mua hết. Những món đặc sản của Việt Nam như nước mắm Phú Quốc, bánh phồng tôm, cua lột, mực khô, cá sặc khô, cá kèo, ghẹ biển nếu được bán trong cửa hàng của người Hoa rất được ưa chuộng mặc dù giá cả có thể mắc hơn tại các cửa hàng “Việt Cộng”. Cũng những món hàng đó nếu được bày bán tại cửa hàng “Việt Cộng” thì bị tẩy chay. Riêng về dịch vụ du lịch, các cơ sở du lịch của người Hoa cũng gần như độc quyền bán vé các chuyến bay đi về Việt Nam. Thương vụ các văn phòng du lịch của người Việt cũng thấp nếu so với thương vụ các văn phòng du lịch của người Hoa cùng bán vé đi về Việt Nam. Số tiền hoa hồng của các cơ sở du lịch của người Hoa trong việc xin chiếu khán cho khách hàng về Việt Nam cũng cao gấp ba lần số tiền do chính các tòa đại sứ hay lãnh sự quán cộng sản nhận được. Thời gian có chiếu khán nhập cảnh vào Việt Nam nếu do cơ sở du lịch của người Hoa thực hiện cũng nhanh hơn vài ngày so với cơ sở du lịch của chính quyền cộng sản. Nói chung người Hoa khống chế tất cả sinh hoạt kinh doanh của người Việt tại hải ngoại. Người ta nói cộng đồng người Việt hải ngoại là đầu cầu kinh tế tại các quốc gia tiền tiến thì phải hiểu đó là đầu cầu của cộng đồng người Việt gốc Hoa.
Về nguồn lợi, sự phát đạt của những cửa hàng Hoa kiều không do khách hàng Việt, Khmer hay Lào đem lại mà do chính cộng đồng Hoa kiều đông dân hơn cộng đồng người Đông Dương thuần túy họp lại, đến mua. Đây là một hỗ trợ tự nhiên, một phong cách sinh hoạt của những người Hoa ly hương. Nhóm Hoa kiều hải ngoại mới này đã có nhiều kinh nghiệm ly hương (tái ly hương hay ly hương lần thứ hai) nên khi tìm đến nhau họ tìm lại một phần quê hương đã mất. Ngôn ngữ trao đổi là ngữ phương gốc (Quảng, Tiều, Phúc Kiến), tuy nhiên tiếng Quan Thoại được sử dụng nhiều nhất. Các cửa hiệu đều có viết chữ Hoa, ít khi thấy ghi chữ Việt hoặc chữ của quốc gia phương Tây. Một số thương gia Hoa kiều gốc Đông Dương liên lạc trao đổi thẳng với Trung Quốc khiến Hoa kiều Đài Loan, Hồng Kông và Singapore e ngại và tìm cách cạnh tranh lại với những lượng hàng hóa tốt và rẻ hơn của Thái Lan (mà chủ nhân là người Hoa), của Hồng Kông, Singapore, Đài Loan hay của những quốc gia thế giới thứ ba khác (Châu Phi, Nam Mỹ…).
Người Hoa định cư trước 1975 giữ độc quyền các dịch vụ tài chánh, ngân hàng, kỹ thuật cao cấp và giải trí. Những công ty Đài Loan, Hồng Kông hay Singapore lớn thích tuyển dụng nhân sự phương Tây hơn là người Hoa hải ngoại trong các dịch vụ chiêu mại và tiếp thị. Người Hoa đến sau 1975 tập trung mọi nỗ lực vào các dịch vụ tạp hóa, ăn uống, sửa chữa cơ khí và tiểu thủ công nghiệp. Kiến thức và khả năng tổ chức của cộng đồng Hoa kiều Đông Dương có giới hạn, họ chỉ có mặt trong các ngành mà họ đã từng hoạt động tại Đông Dương : thỏa mãn những nhu cầu về ăn mặc của người Đông Dương. Trung Quốc nhân cơ hội cũng đã tiếp cận được với các con dân ly hương của họ qua trung gian doanh nhân gốc Hoa tị nạn và đã tỏ ra rất dễ dãi trong việc mua bán.
Một nhận xét chung được nhiều người chia sẻ là cộng đồng Hoa kiều tại phương Tây không có hành động thù địch lẫn nhau, họ có thể cạnh tranh không nhân nhượng nhưng không bao giờ làm hại, chụp mũ lẫn nhau hay có những hành động làm hạ thấp nhân phẩm người Hoa. Nếu một thị trường do nhóm Hoa này độc chiếm, nhóm Hoa kia tìm sang thị trường khác, tất cả đều do sự dàn xếp của những bang trưởng hay những nhà cung cấp lớn. Những trao đổi, dịch vụ chỉ quanh quẩn giữa cộng đồng người Hoa với nhau, họ mua bán, trao đổi trước hết với đồng hương sau đó mới với người ngoài.
Việc kinh doanh của người Hoa gốc Đông Dương vẫn còn những ngày rạng rỡ trước mắt vì không bị người Đông Dương cạnh tranh. Các cộng đồng ly hương Châu Phi, Nam Á, Đông Dương hay Trung Mỹ chưa đủ tầm vóc về vốn liếng và kinh nghiệm để có thể cạnh tranh với họ trong việc thỏa mãn những nhu cầu về ăn và mặc. Hoa kiều Đông Dương không cạnh tranh trực tiếp với những cộng đồng ly hương có tiếng khác như người Do Thái, Nhật Bản, Đại Hàn, Ý trong những lãnh vực mà họ không nắm chắc. Cộng đồng người Hoa tị nạn chỉ sống với thị trường Đông Dương và người Hoa ly hương.
Người Hoa hải ngoại và vấn đề hội nhập
Người Hoa tại hải ngoại không phân biệt quá khứ chính trị của nhau, trừ một số rất ít người còn thiên Đài Loan hay Trung Quốc có một vài thái độ chính trị rõ rệt nhưng rất là thiểu số và bị lạc lõng. Sinh hoạt cộng đồng của người Hoa hải ngoại tập trung vào việc duy trì phong tục, tập quán và văn hóa Trung Hoa. Trẻ em gốc Hoa lớn lên tại hải ngoại được chăm sóc đặc biệt. Phụ huynh các em này, hoặc tự mình chỉ dạy, hoặc mướn thầy dạy chữ phổ thông vào những buổi chiều hay ngày nghỉ. Phong tục, tập quán được duy trì ngay trong gia đình, từ món ăn đến cách thức giao dịch và suy nghĩ : tất cả để duy trì bản thể Trung Hoa. Người Hoa không bỏ lỡ những cơ hội để phổ biến văn hóa Trung Hoa trong những dịp lễ lạc và giao tế.
Cộng đồng người Hoa tại Pháp rất được ưu đãi, họ có phòng họp và phòng học riêng tại các cơ quan của hội đồng tỉnh. Người Pháp mỗi khi muốn liên lạc với cộng đồng người Đông Dương tị nạn thường liên lạc với các bang hội người Hoa vì có quan hệ thường xuyên với các chính quyền địa phương. Cộng đồng người Đông Dương thuần túy chỉ được những giới chính trị hay báo chí biết tới mỗi khi có biến cố chính trị tại Đông Dương. Mặc dù vậy người Hoa hải ngoại vẫn chưa quen tôn trọng luật pháp và những sinh hoạt dân chủ của xã hội phương Tây, họ thường lơ là với những bổn phận dân sự (bầu cử, quân dịch, đóng thuế).
Nếu ở Việt Nam sự hội nhập của các trẻ em gốc Hoa vào xã hội gặp nhiều trắc trở thì trái lại, tại phương Tây trẻ em gốc Hoa có khuynh hướng hội nhập nhanh vào các xã hội bản địa. Một số trẻ em không còn gắn bó với quê hương sinh trưởng của tổ tiên hay của cha mẹ (Trung Hoa và Việt Nam), khi sống tại phương Tây và qua truyền thông đại chúng (mass media), các em này thấy quê hương của tổ tiên còn quá khắt khe (nhất là sau biến cố Mùa Xuân Bắc Kinh 1989), quê hương của cha mẹ (Việt Nam) còn quá lạc hậu, do đó dễ bị lôi cuốn bởi những tiện nghi của cuộc sống đang có. Trẻ em gốc Hoa muốn hội nhập thẳng vào xã hội của các quốc gia phương Tây. Nhiều bang hội, tổ chức văn hóa của người Hoa gia tăng nỗ lực phát huy truyền thống văn hóa để giữ bản thể Trung Hoa, nhưng trong vài trường hợp kết quả mang lại không mấy khả quan. Chỉ trừ một số gia đình cố tình giữ chân con em của mình trong nhà hay cấm giao thiệp với người phương Tây thì mới bảo vệ được “sinh hoạt cổ truyền”. Sinh hoạt cổ truyền ở đây có nghĩa là phổ biến văn minh chữ Hán và buôn bán.
Có nhiều lý do giải thích sự thích nghi này. Thứ nhất, phương Tây có những dân tộc lớn, Trung Hoa cũng là một dân tộc lớn, sự hội nhập là một lẽ tự nhiên. Thứ hai là trình độ dân trí của người phương Tây cao, hội nhập vào là một vinh dự. Thứ ba là đời sống vật chất tại các quốc gia phương Tây sung túc và ổn định, các em này có điều kiện phát huy óc sáng tạo hơn là tại những quốc gia mà tổ tiên hay cha mẹ đã sống và đã tái ly hương. Thứ tư là xã hội phương Tây chấp nhận người Hoa dễ hơn những cộng đồng khác vì sự thông minh, tính cần cù và tinh thần ôn hòa, không phá rối trật tự trị an.
Hiện nay, một số trí thức gốc Hoa cũng mang tâm lý thích làm công, nhưng làm công trong những công ty của chính người Hoa hay những công ty lớn của phương Tây, công ty nặc danh hay đa quốc. Đời sống vật chất dễ dàng và sung túc tại phương Tây khiến thanh niên gốc Hoa mất đi bản năng mạo hiểm. Họ không muốn nhận lãnh rủi ro trong một xã hội mà cơ cấu sinh hoạt hạ tầng đã thành nền tảng, sáng kiến cá nhân mất tầm quan trọng quyết định, biến số thành công trong kinh doanh tại những xã hội phương Tây quá thấp. Tâm lý hưởng thụ này ngày càng ngự trị trong giới trẻ gốc Hoa. Làm giàu tại phương Tây không còn là đặc quyền của một dân tộc, hơn nữa không ai có thể tiến thân mà không có kiến thức cao tại những xã hội phương Tây. Tự ái dân tộc, trong tiềm thức, vẫn ám ảnh những người lãnh đạo cộng đồng người Hoa, càng lúc họ càng có khuynh hướng sống co cụm lại để giữ gìn truyền thống dân tộc. Điều an ủi đối với những bậc phụ huynh và lãnh đạo cộng đồng là thanh niên gốc Hoa chỉ lập gia đình giữa họ với nhau.
Người gốc Hoa này lúc nào cũng muốn thành công tại những quốc gia mà trình độ dân trí và nền kinh tế còn thấp kém như Việt Nam, Lào hay Campuchia. Tại phương Tây, họ phải cố gắng thật nhiều mới đương đầu nổi với các công ty, xí nghiệp bản xứ. Thêm vào đó, hệ thống tổ chức và quản lý xã hội của phương Tây quá chặt chẽ, họ khó có cuộc sống sung túc nếu không chịu làm ăn phi pháp (khai gian lợi tức, tuyển dụng nhân công bất hợp lệ…). Đó là lý do mà cộng đồng người Hoa Đông Dương, những doanh nhân có lợi tức trung bình gần đây có khuynh hướng trở về nơi sinh trưởng cũ để làm ăn, vì tại đây họ có nhiều cơ may thành công hơn người bản xứ.
Cộng đồng người Hoa có tâm lý về nguồn trở lại, đó là điều đáng mừng, họ phụ giúp gia đình làm ăn, có thể nhờ kinh nghiệm có sẵn, họ kiếm tiền dễ dàng hơn tại phương Tây, và khi ăn nên làm ra họ cũng đóng góp, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp nhiều vào sự phát triển chung của các quốc gia Đông Dương, nhất là Việt Nam.
Nguyễn Văn Huy