Vì sao Việt Nam coi “sa mạc hoá” là đe dọa lớn ? (RFI)

Việt Nam vốn không thuộc khu vực có nhiều nguy cơ sa mạc hóa. Tuy nhiên những năm gần đây, cụm từ « chống sa mạc hóa » đang ngày càng phổ biến trên truyền thông trong nước. Nhiều quan chức nói đến việc Việt Nam hiện có 11,8 triệu ha đất (chiếm hơn 35% đất tự nhiên) đang trong tình trạng « thoái hóa », « hoang hóa » và có nguy cơ dẫn tới « sa mạc hóa ». Vì sao Việt Nam lại coi nguy cơ « sa mạc hoá » là mối đe dọa lớn ?


Theo định nghĩa chính thức của Công ước chống sa mạc hóa 1994, sa mạc hóa là « sự suy thoái đất đai tại các vùng khô hạn, bán khô hạn, vùng ẩm nửa khô hạn do các nguyên nhân khác nhau, trong đó có biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người gây ra » (điều 1, chương 1). Quá trình đất bị suy thoái do khô hạn là cốt lõi của hiện tượng sa mạc hóa.

Việc Trái đất bị hâm nóng gia tăng, làm khô hạn thêm trầm trọng, khiến số lượng cư dân bị ảnh hưởng với tình trạng suy thoái đất hiện tại là hơn 3 tỉ dân, tăng vọt so với khoảng 1,5 tỉ dân năm 2011. Năm 2011 cũng là năm mà Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tổ chức hội nghị cấp cao về « Đối mặt với sa mạc hóa, suy thoái đất và tình trạng khô hạn… ».

« Sa mạc hoá »: Khái niệm giúp nhìn nhận triệt để và toàn diện các hiểm họa suy thoái đất

Từ hơn 10 năm nay, Liên Hiệp Quốc thúc đẩy việc gắn liền vấn đề chống sa mạc hóa – vốn là hình thái suy thoái tột độ của đất – với việc phòng chống suy thoái đất nói chung. Công ước chống sa mạc hóa của Liên Hiệp Quốc (UNCCD / CNULCD) được coi là đóng vai trò then chốt trong mục tiêu chống suy thoái đất của cộng đồng quốc tế. Năm 2014, Liên Hiệp Quốc lấy ngày 05/12 hàng năm là Ngày Quốc tế Đất đai, để nhấn mạnh đến vai trò của Đất đai, nơi sản xuất đến 95% thực phẩm nuôi sống nhân loại. Việt Nam – tham gia Công ước chống « sa mạc hóa » từ năm 1998 – cũng điều chỉnh chính sách để việc chống sa mạc hóa bao trùm cả việc ngăn chặn nguy cơ thoái hóa đất các loại.

Về chủ đề này, RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Đỗ Đình Sâm, nguyên viện trưởng Viện Khoa học Lâm Nghiệp Việt Nam.

RFI : Ông nhìn nhận ra sao về vấn đề « sa mạc hóa » ở Việt Nam ?

Giáo sư Đỗ Đình Sâm : Hiện nay Việt Nam dùng lẫn lộn « sa mạc hóa » với « hoang mạc hóa ». Chúng tôi vẫn dùng theo từ chung là « sa mạc hóa » để thống nhất với quốc tế. Bởi vì từ này do gốc tiếng Pháp, tiếng Anh mà ra. Chỉ có một từ « desertification » thôi. Ở Việt Nam, thường tránh nói « sa mạc hóa », mà thiên về « hoang mạc hóa » hay « thoái hóa đất » nhiều hơn, để dễ tưởng tượng. Nếu ở Việt Nam mà chỉ đất sa mạc hóa đây, đất sa mạc đây, thì người ta khó nghe. Nhưng nói là « có khả năng », « có nguy cơ sa mạc hóa » thì người ta nghe được, nhưng những cụm từ đó hơi dài.  

Số 11 triệu ha đất gọi là « thoái hóa » hoặc « hoang hóa » có thể chia thành ba hay bốn loại. Một loại nguy cơ sa mạc hóa cao, loại nguy cơ thấp, loại nguy cơ trung bình chẳng hạn. Thực ra, theo quan điểm của mình, nơi nào cũng phải quan tâm đến vấn đề sa mạc hóa cả. Việt Nam mặc dù nằm trong nhóm nước nhiệt đới mưa nhiều, nhưng với biến đổi khí hậu, mà có sáu tháng mùa khô, với điều kiện sử dụng đất không hợp lý, thì vấn đề sa mạc hóa nói chung là có ở toàn quốc. Thực ra mỗi tỉnh đều có một số địa điểm cục bộ có khả năng thoái hóa đất, do biến đổi khí hậu, do mất rừng, do sử dụng đất không tốt làm đất sói mòn, thoái hóa độ phì đi, thì tất cả những nơi đó phải quan tâm.

5 vùng đất có nguy cơ « sa mạc hoá » ở Việt Nam

RFI : Theo Ông, hiện tượng sa mạc hóa đe dọa chủ yếu đến các khu vực nào ?

Giáo sư Đỗ Đình Sâm : Hiện nay ở Việt Nam, người ta quan tâm đến 5 loại sa mạc hóa. Thứ nhất là vùng mưa ít của Việt Nam. Mưa ít thì có mấy nơi : Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa, trước kia là Phan Rang, Phan Rí. Ở ngoài Bắc, thì có vùng Tây Bắc có một số nơi mưa ít hơn, như Sơn La hay Mộc Châu, Yên Châu, hay vùng giáp Lào chẳng hạn ở Mường Xén – Hà Tĩnh. Đấy là những nơi mình phải quan tâm vì lượng mưa thấp. Nhưng hiện nay biến đổi khí hậu thì khô hạn ngày càng tăng cường. Không chỉ những vùng đó, mà rất nhiều vùng mà có đến 5 tháng, 6 tháng hay thậm chí 7, 8 tháng không có mưa. Nguyên nhân đầu tiên đối với nguy cơ sa mạc hóa là biến đổi khí hậu và lượng mưa.

 Thứ hai là trên đất cát ven biển. Những vùng cát là khả năng sa mạc hóa cao vì thứ nhất là dinh dưỡng của đất kém, thứ hai nhiệt độ rất cao. Nhưng không phải tất cả đất cát đều có thể coi là sa mạc hóa được, nhưng nguy cơ cao hơn so với đất khác.

 Thứ ba là đất bị xói mòn trơ sỏi đá. Trước tiên có rừng bao phủ, bây giờ mất đi. Việt Nam gọi đây là « đất trống, đồi núi trọc ». Đất bị thoái hóa hết rồi bị « kết von » (concretion) trên tầng mặt. Khô hạn khiến đất cứng lại. Hầu như chỉ có cây công nghiệp là có thể phát triển được.

 Thứ tư là đất chua phèn. Phèn hóa tức axit lên cao cũng được xếp vào nhóm có khả năng sa mạc hóa.  Thứ năm là vấn đề xâm nhập mặn cũng liên quan đến sa mạc hóa. Sa mạc hóa ở Việt Nam xảy ra cục bộ ở rất nhiều nơi trong toàn quốc, nhưng điển hình là những vùng nói trên.  

Đất sa mạc hóa và tán cây xanh « rừng khộp »

Trong câu chuyện với chúng tôi, Giáo sư Đỗ Đình Sâm rất chú ý đến trường hợp của rừng Khộp, một loại rừng tự nhiên đặc biệt mọc lên từ vùng đất đai bị thoái hóa nghiêm trọng.

Giáo sư Đỗ Đình Sâm : « Ví dụ như ở Tây Nguyên chúng tôi thấy ở những vùng đất xói mòn trơ sỏi đá, có rừng với những loại cây phù hợp, người ta gọi là « rừng khộp ». « Khộp » là tiếng dân tộc để chỉ một loại rừng (rừng nghèo).  Những cây này thuộc họ Dầu, như cây Sao ở phố Lò Đúc Hà Nội, hay trong Nam có nhiều đường phố trồng cây Dầu, như cây Dầu rái. Ở rừng Khộp, chỉ có bốn loài, cây dầu đồng, cây dầu chà đeng, cây cà chít và cây cẩm liên. Ở Việt Nam, rừng tự nhiên có rất nhiều loài, hàng trăm loài, nhưng ở rừng Khộp thì đơn giản lắm, vì điều kiện khắc nghiệt lắm, toàn bộ đất là đá ong kết von, hầu như không có đất gì cả, cuốc vào đấy toàn gặp đá, sỏi và kết von. Rất xương xẩu !

Điều kiện đặc biệt lắm, nhưng cây rừng vẫn tốt. Chỉ cần có một ít đất, có một tí nước là nó hút, cây phát triển thôi. Mùa khô cây rụng hết lá trông như rừng chết, nhưng đến mùa mưa lại xanh rờn lên. Bây giờ chẳng ai nói diện tích đấy là sa mạc hóa cả, bởi vì cây tươi tốt vào mùa mưa, đa dạng sinh học có, có cả voi, có cả hươu nai, hồi xưa có cả cá. Còn đi săn ở đấy rất nhiều. Giờ phá đi nhiều chỉ còn lại ít thôi. 

Không ai nói là đất sa mạc hóa. Nhưng về bản chất mà nói, về khoa học mà nói, đất này là thuộc về sa mạc hóa khô cằn rồi. Cây nông nghiệp không sống được. Nhưng không ai thống kê đấy là đất sa mạc hóa.»

« Rừng khộp »: Sức mạnh thiên nhiên kỳ diệu  

Chuyên gia về rừng Việt Nam nhấn mạnh là vấn đề rừng Khộp trong phải là trọng tâm của nguy cơ sa mạc hóa ở Việt Nam, nhưng là một ví dụ tiêu biểu cho thấy sức mạnh bí ẩn, diệu kỳ của thiên nhiên.

Giáo sư Đỗ Đình Sâm : « Nếu nhìn « rừng khộp » và vấn đề sa mạc hóa ở Việt Nam dưới góc nhìn chung của nhà quản lý, thì đây không phải là vấn đề lớn, vì diện tích so với rừng tự nhiên rất ít. Tuy không phải vấn đề trọng tâm, nhưng về mặt khoa học, có thể có ích để giải thích về khái niệm sa mạc hóa, và việc đất đai bị sa mạc hóa có khả năng phục hồi được nhờ tự nhiên. Chứ không phải là bó tay với vấn đề sa mạc hóa.   

Có hai tác động. Một là tác động của con người, bằng trí óc thông minh của mình, để mà chống chọi được sa mạc hóa, bằng tất cả các biện pháp, điển hình là nhất là vấn đề đất cát của mình là tác động của việc dùng cây phi lao. Tác động thứ hai là tự nhiên cũng có thể phục hồi được trong điều kiện sa mạc hóa với điển hình là rừng khộp. »

Theo Giáo sư Đỗ Đình Sâm, điều quan trọng nhất để chống nguy cơ sa mạc hóa là phải bảo vệ được rừng tự nhiên hiện có. Đây là vấn đề « khó nhất ».  Việt Nam có chủ trương « đóng cửa rừng », tức cấm khai thác rừng tự nhiên từ năm 2017. Nhưng điều đáng sợ là rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị tàn phá dần mòn.

Coi trọng « Sức khoẻ của đất » : Cốt lõi của chính sách chống « sa mạc hoá »

Chính sách chống « sa mạc hóa » mở rộng, bao hàm tất cả các hình thức suy thoái đất, cho phép các nhà lập chính sách và các tác nhân khác đối diện với vấn đề cốt lõi, « sức khỏe của đất ». Bảo vệ sức khỏe của đất đồng nghĩa với việc giúp chống suy thoái. Giáo sư Đỗ Đình Sâm nêu bật nghịch lý nẩy sinh do việc trồng độc canh cây keo, vốn đã và đang được coi là một giải pháp phủ xanh đồi trọc chính tại Việt Nam – đang có nguy cơ làm tổn hại đất.

Giáo sư Đỗ Đình Sâm : « Đối với chống sa mạc hóa, điều thứ hai là rừng trồng phải đa dạng hơn. Không phải chỉ có keo và bạch đàn. Nhưng cái này khó, bởi vì những đất thoái hóa như vậy mà chỉ trồng loại cây lá rộng khó thành công. Chỉ có keo, bạch đàn, nhập từ Úc, ở cái vùng khô hạn nhiều, thì phù hợp với khí hậu Việt Nam.

Vấn đề nảy sinh hiện nay với những nơi trồng keo và bạch đàn, tức chỉ trồng có một loài duy nhất, là vấn đề sâu bệnh, khiến cây chết hàng loạt. Đây là hệ quả của việc chỉ trồng một loài. Mới đầu thì kết quả rất tốt, nhưng sau đó xuất hiện vấn đề này. Cái khó để chuyển đổi là vì loại cây này phù hợp với các vùng đất xấu. Về loại cây lá rộng, ngoài keo và bạch đàn, không cây nào sống nổi. Người dân nghèo cũng cần đến những loại cây nhanh chóng cho thu hoạch gỗ sau 5, 6 năm.

Vấn đề sâu bệnh chết hàng loạt không trực tiếp liên quan đến sa mạc hóa, mà đây trước hết là vấn đề « sức khỏe đất » (soil health), tức đất bị ảnh hưởng, không khỏe được, giống như cơ thể của mình có bệnh trong người. Bệnh từ cây lan xuống đất. Nếu cứ trồng mãi như thế thì năng suất ngày càng giảm đi. Sức khỏe đất là vấn đề cần phải quan tâm. » 

« Phủ xanh đồi trọc » không đủ bảo đảm « Sức khỏe của đất »

Nguy cơ sa mạc hóa tưởng như được đẩy xa, nếu căn cứ theo số liệu chính thức, Việt Nam hiện có 42% diện tích đất toàn quốc đã được rừng che phủ. Tuy nhiên, giáo sư Đỗ Đình Sâm cảnh báo, chỉ « phủ xanh » thôi là hoàn toàn chưa đủ. Điều quan trọng nhưng không hề dễ dàng, là phải tìm được những thứ cây trồng phù hợp, vừa cho phép làm cho đất khỏe, vừa mang lại lợi ích kinh tế bền vững.

Giáo sư Đỗ Đình Sâm : « Khi có cây phủ thì nguy cơ sa mạc hóa bị hạn chế. Nhưng phải đặt vấn đề năng suất sinh học và kinh tế trong sử dụng đất. Hồi xưa mình có từ phủ xanh đất trống, đồi trọc. Có nghĩa là tôi chỉ cần phủ xanh thôi là được rồi. Vấn đề bây giờ là phải trồng được cây có kinh tế để người ta có thể sống được. Trong vấn đề (chống) sa mạc hóa này, cần xem xem bằng cách nào anh sử dụng đất một cách kinh tế, nhưng không làm thoái hóa, làm ít thoái hóa hơn.

Về mặt nào đó, kinh tế có thể nói là ổn định rồi, trồng rừng lên được, tức cũng giảm nguy cơ sa mạc hóa rồi, nhưng chưa đạt được yêu cầu bền vững. Bền vững với môi trường có nghĩa là không để xẩy ra vấn đề sâu bệnh. Không để xảy ra vấn đề thoái hóa đất, khi việc trồng cây khiến năng suất sinh học (của đất) kém đi. Vấn đề này ngành lâm nghiệp có thấy, có đặt ra, có nghiên cứu. Nhưng thay đổi cây này với cây khác rất khó, bởi gắn với kinh tế. »

Nếu tôn trọng Đất, Thiên nhiên sẽ tiếp tục là chỗ dựa cho con người

Việc nhìn nhận nguy cơ « sa mạc hóa » như một đe dọa toàn quốc cho phép Việt Nam đối mặt một cách toàn diện với các hình thức suy thoái đất đai đủ loại. Đặt vấn đề « sức khỏe đất » lên tuyến đầu cho phép hoạch định những chính sách hiệu quả để bảo vệ thứ tài nguyên vô giá này. Bảo vệ rừng tự nhiên, hướng đến những cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng từng địa phương để khôi phục đa dạng sinh học là những giải pháp sâu gốc bền rễ, cho phép Việt Nam vừa trực tiếp chống lại đe dọa sa mạc hóa, góp phần hạn chế biến đổi khí hậu, và có thêm nhiều nguồn lực kinh tế.

Nếu tôn trọng Đất – sản phẩm kỳ diệu của hàng chục, hàng trăm triệu năm tiến hóa của sinh giới trên Trái đất, Thiên nhiên sẽ tiếp tục là chỗ dựa vững chắc giúp con người vượt qua những thách thức chưa từng có hiện nay.

Trọng Thành

Nguồn : RFI Tiếng Việt

Đường dẫn bài gốc

About the author