Cung cách hành xử của người lãnh đạo trong các thời biến của lịch sử (II) (Lê Quế Lâm)

Tiên liệu đất nước trong tương lai dưới chế độ cộng sản có nhiều việc đau lòng, nên trong những trang cuối của quyển hồi ký lịch sử, nhà ái quốc lão thành đã có những lời tâm huyết giải bày với những người Việt Minh/Cộng sản. Cụ nhận định: “Về phương diện chính trị, chính phủ Việt Minh đã thất sách từ lúc đầu, chưa gì đã đem áp dụng cái chủ nghĩa cộng sản một cách đường đột quá, thành ra ở trong thì dân tình ta thán mà ở ngoài thì không có ai muốn giúp đỡ, thế bất đắc dĩ phải lập ra mặt trận kháng chiến.

Việc làm của Việt Minh có hai điều trở ngại. Một là đem cái phương cách hành động ở các nước Tây phương sang thi hành ở Việt Nam có nhiều điều không thích hợp với hoàn cảnh và tình hình đất nước. Hai là vị trí của Việt Nam ở trong phạm vi Anh Mỹ, theo hiện tình bây giờ, thế nào người ta cũng không để đất nước này thành cộng hòa. Trong khi hai lý tưởng còn đối lập thì mình chưa sao thoát khỏi cái thế lực của Anh Mỹ. Như vậy, mình cố chấp muốn cộng hòa thì tất là chỉ có phần thiệt hại mà thôi, chớ khó lòng thành công được.

Dù hay dở thế nào mặc lòng, đảng Việt Minh đã có cái công lớn tổ chức được kháng chiến mà nước Pháp phải cho nước Việt Nam được độc lập và thống nhất. Song trong tình thế hiện nay thì đảng Việt Minh chỉ làm được đến đấy thôi, không thể làm hơn được nữa. Nếu cố làm cho đưọc như ý muốn thì chỉ làm khổ dân hại nước mà không chắc đạt được cái của họ”.

Người mình đã phơi xương đổ máu trong sáu bảy chục năm trời từ khi có cuộc bảo hộ của nước Pháp đến giờ, có phải tại người mình muốn sống cái đời sống tự chủ của mình, chứ không làm nô lệ ai? Lẽ nào ta lại theo một cái lý tưởng chưa thực hiện được mà đem mình làm nô lệ một nước khác? Dù có say mê một lý tưởng nào đi nữa thì cũng nên đi từ từ để cho thời gian dũa mòn bớt góc cạnh có thể gây ra nhiều đau khổ. Đời chưa đủ đau khổ hay sao mà còn muốn gây thêm ra nữa.

Tôi đem cái ý kiến ấy mà phô bày ra đây là theo tình thế hiện thực mà thôi, chớ không phải là một điều mơ tưởng, mà tôi cũng không thiên vị một chủ nghĩa nào hay đảng phái nào cả, tôi đã nhất quyết không mưu cầu danh lợi gì hết, chỉ mong người trong nước bỏ bớt cái lòng tư tâm tư lợi mà ra sức giúp cho nước nhà chóng được yên ổn và thịnh vượng để cùng với thế giới đi lên con đường tiến bộ.

Cũng bởi tấm lòng vì dân vì nước ấy và khi thấy quốc gia gian nan, không lẽ ngồi nhìn, nên tôi tự biết mình đã già yếu kém cỏi không làm gì được, nhưng ít ra cũng theo cái lương tâm mà đem những sự tôi biết và đã thấy mà phô bày ra để mọi người suy xét cho đúng sự thật. Dù ai có bảo đó là lời nói của một anh hủ nho, tôi cũng cam tâm mà tự cho mình, với cái tâm của mình đã làm hết bổn phận làm người vậy”.

Điều bất hạnh cho dân tộc là ông Hồ Chí Minh không nghe những lời tâm huyết của cụ Trần Trọng Kim, ông quyết tâm dựa vào Liên Xô và Trung Cộng để thực hiện hoài bão giải phóng dân tộc bằng con đường chiến tranh chống thực dân, đế quốc. Ông Hồ và Việt Minh kháng chiến chống Pháp là cái nhân tạo ra cái quả là Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam qua giải pháp Bảo Đại, nhưng họ không thể chấp nhận Việt Nam lọt vào quỹ đạo cộng sản, nên tiếp tục duy trì ảnh hưởng ở đây, để khối Liên hiệp Pháp bảo vệ quốc gia độc lập còn non trẻ này. Do đó dư luận lên án công kích Pháp không thực tâm trao trả độc lập cho Việt Nam, Quốc trưởng Bảo Đại chỉ là bù nhìn do Pháp dựng lên… nhưng cục diện đất nước diễn tiến theo luật nhân quả, vay trả trả vay.

Trong thời thực dân, Pháp đã vơ vét tài nguyên ở Việt Nam để làm giàu cho nước Pháp. Họ chưa trả được món nợ này thì bị Nhật đảo chánh. Nhưng cơ trời xui khiến, mấy tháng sau Nhật bại trận, Pháp trở lại Việt Nam, chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam và bảo vệ đất nước này khỏi bị lọt vào tay Việt Minh/Cộng sản được Trung Cộng tận tình yểm trợ.

Để bảo vệ quốc gia Việt Nam, từ năm 1949 đến 1954, số thương vong và mất tích của quân Viễn chinh Pháp ở Đông Dương đã lên đến 120 ngàn. Ngoài xương máu binh sĩ, chi phí của Pháp vào cuộc chiến bảo vệ độc lập cho Việt Nam lên đến 3000 tỷ franc, gấp nhiều lần số tiền mà Pháp nhận của Mỹ qua kế hoạch Marshall để kiến thiết nước thời hậu chiến. Tựu chung, nhờ cuộc kháng chiến của ông Hồ Chí Minh, đã giúp Pháp trả xong món nợ Việt Nam trước khi rút khỏi Đông Dương hồi năm 1955.

Đối với triều đình nhà Nguyễn, vị vua cuối cùng là Bảo Đại đã thoái vị hồi tháng 8 năm 1945. Như vậy, nhà Nguyễn chưa trả được món nợ đã để đất nước rơi vào tay thực dân Pháp hồi giữa thế kỷ trước. Cũng nhờ cuộc kháng chiến của Việt Minh, Pháp phải thương thảo với cựu hoàng Bảo Đại, đưa đến hiệp ước Élysée ngày 8/3/1949, Pháp công nhận Việt Nam độc lập và thống nhất, trong khi cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh vẫn còn tiếp diễn và ngày càng khốc liệt. Trong tình thế đó, Việt Nam phải ở trong khối Liên hiệp Pháp để được khối này bảo vệ chống lại mưu đồ nhuộm đỏ Đông Dương của khối cộng sản.

Ngày 7/5/1954, cứ điểm Điện biên Phủ thất thủ, làm chấn động dư luận thế giới. Tại Hoa Thạnh Đốn, tổng thống Eisenhower dự định ra trước Quốc hội yêu cầu được can thiệp bằng lực lượng quân sự với điều kiện tiên quyết Pháp phải trao trả độc lập thực sự cho các nước Đông Dương. Ông coi đây là hành động cuối cùng để cứu Đông Dương.

Ba ngày sau, thủ tướng Pháp Joseph Laniel kêu gọi Hoa Kỳ can thiệp để cứu Đông Dương. Eisenhower họp khẩn cấp với Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân – Đô đốc Radford, ngoại trưởng Dulles và bộ trưởng Quốc phòng Charles Wilson. Ông chỉ thị Bộ Ngoại giao chuẩn bị sẵn một quyết nghị để ông ra trước lưỡng viện Quốc hội yêu cầu được đưa binh sĩ Mỹ sang Đông Dương để bảo vệ Đông Nam Á, đồng thời ra lịnh Bộ Quốc phòng thiết lập một kế hoạch khẩn cấp cho việc can thiệp.

Đô đốc Radford đề nghị xử dụng bom nguyên tử chiến thuật ở Điện biên Phủ. Kế hoạch đã được Eisenhower chấp nhận nhưng bị thủ tướng Anh Churchill cực lực phản đối nên phải hủy bỏ. Trong khi đó tại Quốc hội, vấn đề can dự được thảo luận sôi nổi. Thượng nghị sĩ George McClellan phản đối việc gởi quân Mỹ sang Đông Dương vì mục đích duy nhất là để bảo vệ thuộc địa này của Pháp. Thượng nghị sĩ George Smathers thì yêu cầu “trước khi trù tính gởi binh sĩ Mỹ sang Đông Dương, Pháp phải trao trả độc lập thực sự cho các quốc gia liên kết“. Đó cũng là quan niệm của Thượng nghị sĩ John F. Kennedy. Ông yêu cầu một sự thống nhất hành động của các nước trên thế giới để bảo vệ dân chủ tự do. Thượng nghị sĩ Lyndon Johnson thì nói rằng: “Chúng ta bị kẻ địch lừa gạt, còn Đồng minh thân hữu thì sợ hãi chỉ mong chúng ta đứng ra đương đầu với sự việc. Chúng ta đang ở vào vị trí nguy hiểm, bị cô lập trong một thế giới chống đối“. Sau đó, các lãnh tụ Quốc hội đã lấy một quyết định tối hậu là “Việt Nam độc lập tự do là điều rất cần cho nền an ninh thế giới và chỉ có một cách để bảo đảm cho nền an ninh ấy là sử dụng biện pháp quân sự”.

Lợi dụng thời cơ này, Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm một hậu duệ nhà Nguyễn là Hoàng thân Nguyễn Phúc Bửu Lộc làm thủ tướng ngày 17/12/1953. Từ khi Quốc gia Việt Nam ra đời, các thủ tướng đều là người miền Nam (Nam Phần) : Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm. Nay tình thế đòi hỏi, một hậu duệ nhà Nguyễn được Quốc trưởng Bảo Đại cử làm thủ tướng, đứng ra thương thảo với thủ tướng Pháp Joseph Laniel để Việt Nam được độc lập hoàn toàn không còn trong khối Liên hiệp Pháp.

Trong phái đoàn tháp tùng thủ tướng Bửu Lộc đến Pháp có Luật sư Nguyễn Đắc Khê, bộ trưởng bộ Dân Chủ Hóa. Điều này cho thấy thiện ý của Quốc trưởng Bảo Đại, sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, Việt Nam sẽ bước vào một kỷ nguyên mới Dân chủ tự do. Ngày 4/6/1954, Thủ tướng Bửu Lộc và thủ tướng Pháp Joseph Laniel đã ký Hiệp ước Độc lập (Traité d’Independence). Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia hoàn toàn độc lập có đầy đủ chủ quyền và thẩm quyền được quốc tế công pháp công nhận.

Sau khi hoàn thành sứ mạng do cựu hoàng giao phó, ngày 16/6/1954 Hoàng thân Bửu Lộc xin từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại cử ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng với toàn quyền dân sự và quân sự. Qua hành động này, có thể nói cựu hoàng nhà Nguyễn đã thực sự thoái vị, sau khi đã giành lại toàn bộ lãnh thổ, đất nước độc lập. Cựu hoàng đã trả xong cái quả do tiên vương Tự Đức tạo ra. Nay đất nước sắp bị chia đôi, trước tình thế đó, thể diện của một ông vua từng tuyên bố “Dân Vi Quý, Quân Vi Khinh”, một quốc trưởng hướng đến một chế độ Dân chủ tự do cho dân tộc, không thể nào chấp nhận tiếp tục lãnh đạo một nửa giang sơn khi vận nước đến thời mạt vận. Do đó Quốc trưởng Bảo Đại trao quyền lãnh đạo cho ông Ngô Đình Diệm, người được ông tin tưởng và cử làm thượng thư bộ Lại hồi năm 1933. Nay, khi đất nước chia đôi, ông Diệm sẽ thành lập chế độ Cộng hòa, xây dựng thể chế Dân chủ ở miền Nam, song hành với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của ông Hồ Chí Minh ở miền Bắc.

Trên đây là chân dung và cung cách hành sử của vị thủ tướng đầu tiên khi đất nước bắt đầu độc lập và vị vua cuối cùng của triều đại phóng kiến (1802-1945) đồng thời cũng là quốc trưởng duy nhất của Quốc gia Việt Nam (1949-1954).

*                     

Đề cập đến thủ tướng Trần Trọng Kim và Quốc trưởng Bảo Đại mà không nói đến Cộng hòa Nam Kỳ tự trị và Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân – Thủ tướng Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam – sẽ là một điều thiếu sót. Vì lẽ Cộng hòa Nam Kỳ tự trị và ông Xuân đã góp phần đắc lực trong việc thành lập Quốc gia Việt Nam từ chỗ phân ly kéo dài gần 90 năm đến thống nhất và độc lập (1862-1949).

Tướng Xuân là thủ tướng thứ ba của Cộng hòa Nam Kỳ tự trị, vị tiền nhiệm là Bác sĩ Lê Văn Hoạch và thủ tướng đầu tiên là Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh.

Chính phủ và nhà nước này ra đời trong bối cảnh như thế nào?

Trong khi Thế chiến II đang diễn ra, các nước Đồng minh thỏa thuận sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở lại các thuộc địa, thương lượng với những người lãnh đạo bản xứ, để từng bước trao trả độc lập cho các thuộc địa. Ngày 24/3/1945 Charles de Gaulle – thủ tướng Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Pháp – công bố bản Tuyên ngôn công nhận các nước Đông Dương sẽ được tự trị sau khi chiến tranh chấm dứt.

Ngày 15/8/1945 Nhật đầu hàng. Trần Văn Giàu – Xứ ủy Nam Kỳ (Việt Minh/Cộng sản) – giành được chính quyền. Ngày 25/8/1945, Trần Văn Giàu thành lập Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam Bộ. Ngày hôm trước Jean Cédille được Charles de Gaulle cử làm ủy viên Cộng hòa Pháp ở Nam Kỳ. Y được phi cơ Anh thả dù xuống Tây Ninh. Bốn ngày sau y đã có mặt tại Sài gòn, tiếp xúc sơ khởi với Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch và Nguyễn Văn Tạo thuộc Ủy ban Hành chánh Nam Bộ. Cuộc đàm phán bất thành vì lập trường đôi bên trái nghịch nhau. Phía Việt Minh đòi Pháp nhìn nhận độc lập, còn Pháp thì chủ trương tái lập trật tự, công nhận Nam Kỳ được tự trị như Tuyên ngôn 24/3 của Charles de Gaulle. Sau đó tổ chức trưng cầu dân ý để người dân quyết định Nam Kỳ độc lập tự trị hay thống nhất với Bắc và Trung Kỳ. Đàm phán bất thành, chiến tranh bùng nổ tại Nam Bộ từ ngày 23/9/1945.

Ở miền Bắc, sau khi Nhật đầu hàng, ông Hồ Chí Minh giành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945). Trước đó vào ngày 22/8 Jean Sainteny được Charles de Gaulle cử làm ủy viên Cộng hòa Pháp ở miền Bắc, y đã có mặt tại Hà Nội và thảo luận với Võ Nguyên Giáp – đại diện Ủy ban Giải phóng Việt Nam của Việt Minh.

Trong lúc Pháp tiến hành việc tái lập chủ quyền ở Nam bộ, thì tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, bộ trưởng bộ Pháp Quốc Hải ngoại Marius Moutet gặp đại diện chính phủ Tưởng Giới Thạch thảo luận vấn đề các nhượng địa mà triều đình Mãn Thanh đã giao cho Pháp hồi thế kỷ trước.  

Hai bên thỏa thuận một sự trao đổi quyền lợi đưa đến hiệp ước Pháp Hoa được đại sứ Pháp Jacques Meyrier và bộ trưởng ngoại giao Trung Hoa Wang Shijie ký tại Trùng Khánh ngày 28/2/1946. Theo hiệp ước này, chính phủ Pháp đồng ý trả lại cho Trung Hoa các tô giới Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Đông, Hán Khẩu và đất mướn Quảng Châu Loan; bán lại đường xe lửa Vân Nam; và chấp nhận Hải Phòng là hải cảng tự do, hàng Trung quốc được miễn thuế quan. Để đổi lại, quân đội Pháp sẽ thay thế quân đội Trung Hoa ở bắc Vĩ tuyến 16. 

Đầu tháng 3/1946, Jean Sainteny được Cao ủy D’Argenlieu ủy nhiệm làm đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp đến Hà Nội thảo luận với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thay thế quân Trung Hoa tại đây và tương lai chính trị Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh ký Hiệp ước sơ bộ (Accords preliminaires) ngày 6/3/1946 với Sainteny và tướng Salan trước sự chứng kiến của đại diện Bộ Tư lệnh Quân đội Trung Hoa, Lãnh sự quán Anh và Phái bộ Hoa Kỳ.  

Nội dung hai bên thảo luận 3 khoản sau: 

  • Khoản thứ nhất: Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chánh riêng và là một thành phần của Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Riêng Nam bộ tạm thời do Pháp quản lý để chờ cuộc trưng cầu dân ý của dân chúng Nam bộ, Pháp hứa sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý này. 
  • Khoản thứ hai: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải lấy tình thân thiện mà đón tiếp quân đội Pháp, chiếu theo thỏa hiệp quốc tế vào thay quân Trung Hoa. 
  • Khoản thứ ba: Sau khi hai bên đã ký, thì phải thi hành ngay những điều đã quy định và mỗi bên phải tìm cách đình chỉ các cuộc xung đột. Quân đội hai bên ở nguyên tại chỗ, tạo không khí hòa hảo để mở cuộc thương thuyết theo tinh thần thân thiện và chân thật. Cuộc thương thuyết sẽ bàn về: 
    • Việc ngoại giao của nước Việt Nam với các nước ngoài. 
    • Quyền của Pháp trong tương lai ở Đông Dương. 
    • Những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam. 

Theo tinh thần hiệp ước trên thì lúc bấy giờ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kể từ Trung bộ trở ra mà thôi, còn Nam bộ thì đợi sau khi có kết quả của cuộc trưng cầu dân ý thì mới quyết định được.  

Ba tháng sau, hiệp ước sơ bộ được Moutet trình lên chính phủ Pháp. Hiệp ước được Paris chính thức phê chuẩn. Ngày 13/3/1946, hai bên Pháp Hoa thỏa thuận việc thay quân. Những đội quân đầu tiên thuộc Sư đoàn cơ giới Pháp dưới sự chỉ huy của tướng Leclerc đổ bộ lên Hải phòng. Để bày tỏ sự hợp tác với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Leclerc đề nghị quân đội hai nước tổ chức một cuộc diễn binh chung nhân dịp này. 

Sau khi ký hiệp ước sơ bộ, do đề nghị của bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại) đứng đầu Đoàn Cố vấn quốc gia, đại diện chính phủ đi thăm Trùng Khánh để thắt chặt thêm tình hữu nghị hai nước Việt Hoa. 

Để tiến tới một hiệp định chính thức và toàn bộ, hai phái đoàn Việt Pháp đã gặp nhau ở hội nghị trù bị Đà Lạt từ 19/4 đến 11/5/1946. Phái đoàn Việt Nam do bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam cầm đầu gồm các nhân vật Quốc Cộng như Hoàng Xuân Hãn, Hồ Hữu Tường, Trần Văn Tuyên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…Trưởng đoàn Pháp là Nghị sĩ Max André.  Khi đi vào thảo luận, hai bên bất đồng ý kiến ở nhiều vấn đề mà then chốt là vấn đề độc lập và thống nhất Việt Nam. Cuộc đàm phán không đi đến kết quả sau đó được chuyển sang Pháp để khai thông các trở ngại. 

Tám tháng trước đây khi Pháp vừa trở lại Nam Kỳ thuộc địa, họ đã tiếp xúc ngay với nhóm Cộng sản trong Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ. Cuộc thương thảo chỉ diễn ra trong thời gian ngắn rồi tan vỡ đưa đến chiến tranh, Nam Bộ kháng chiến. Nay Pháp trở lại miền Bắc ký Hiệp ước sơ bộ với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 6/3/1946. Nhưng ba ngày trước đó Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (mặc dù tuyên bố đã giải tán) ra chỉ thị ngày 3/3/1946: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không ngừng nghỉ một phút công việc sửa soạn sẳn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của toàn dân ta”. 

Cộng Hòa Nam Kỳ Tự trị ra đời: Trong thời gian phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp gặp nhau tại hội nghị trù bị Đà Lạt, đích thân bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thuộc hội đồng Tư vấn Nam Kỳ đã có mặt bên ngoài hội nghị để nghe ngóng tin tức. Ông thấy lập trường đôi bên hoàn toàn cách biệt. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa đòi độc lập thống nhất ngay còn Pháp thì trì hoãn, vì đây là vấn đề lớn phải được giải quyết ở cấp cao bên Paris, nên hội nghị phải chuyển sang Fontainebleau.

Để tránh thảm họa cho đất nước, cuối tháng 5/1946, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh – ủy viên Hội đồng Tư Vấn Nam Kỳ, dựa vào Tuyên ngôn 24/3 (1945) của De Gaulle: Pháp cho Nam Kỳ và các nước Đông Dương được tự trị, ông thành lập Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ Tự trị. Hoài bão của Bác sĩ Thinh khi thành lập Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ Tự trị là để phối hợp với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của ông Hồ Chí Minh thương thuyết với Pháp. Hai bên Việt Nam, một bên ôn hòa, một bên cứng rắn có thể duy trì được sự đàm phán, nếu đổ vỡ, chiến tranh sẽ xảy ra. 

Cả hai đều được Pháp thừa nhận là những nước Cộng hòa Tự do, cao hơn mức tự trị mà bọn chúng dự trù năm trước. Điều đó cho thấy Pháp đã phần nào nhượng bộ, vì đó là đòi hỏi của Mỹ, nước đang giúp Anh, Pháp và Tây Âu tái thiết với kế hoạch Marshall. Cả hai đều đấu tranh cho nền độc lập và thống nhất quốc gia. Vấn đề cấp thiết đối với những người làm chính trị thức thời là phải duy trì đàm phán để tránh đổ máu vì chiến tranh.  

Đó là con đường khôn khéo bất bạo động của Thánh Gandhi được thủ tướng Nerhu thực hiện ở Ấn Độ, nhờ đó đất nước này giành được độc lập hoàn toàn sau ba năm thương thảo với Anh (1945-1948). Phần đất năm tỉnh ở Pondichery của Ấn nguyên là thuộc địa của Pháp, sau 1945 được tự trị và cuối cùng thống nhất vào Ấn khi nước này giành được độc lập. 

Ngày 31/5/1946, phái đoàn Việt Nam lên đường đi dự hội nghị Fontainebleau gồm có Phạm Văn Đồng, Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Tạ Quang Bửu, Trịnh Quang Bính, Nguyễn Tấn Di Trọng, Nguyễn Mạnh Hà… Đáng lẽ bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam cầm đầu phái đoàn, nhưng đến ngày lên đường ông cáo bệnh và xin từ chức. Phạm Văn Đồng được cử thay thế. Ngoài phái đoàn chính thức kể trên, ông Hồ Chí Minh cũng sang Paris tham dự cuộc đàm phán thể theo lời mời của thủ tướng Pháp Felix Gouin. 

Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo Pháp vi phạm hiệp ước sơ bộ 6/3 khi thành lập nước Cộng hòa Nam kỳ. Pháp đưa ra những hiệp ước mà triều đình Huế đã ký kết, cho rằng Nam kỳ là thuộc địa của Pháp nên họ có quyền xây dựng một thể chế phù hợp với nguyện vọng người dân địa phương. Pháp cam kết sẽ tổ chức cuộc trưng cầu dân ý theo tinh thần Hiệp ước sơ bộ ngày 6 tháng 3 để người dân Nam bộ quyết định muốn tự trị hay muốn thống nhất vào lãnh thổ Việt Nam. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập luận rằng mục đích của cuộc trưng cầu dân ý ghi trong Hiệp định sơ bộ không phải để hỏi chủ quyền Nam bộ thuộc về đâu vì Việt Nam đã có ba kỳ mà cuộc bỏ phiếu chỉ để hỏi nhân dân Nam bộ có muốn giữ giới hạn “kỳ” hay không trong khuôn khổ nước Việt Nam thống nhất

Cuộc đàm phán vì thế đi vào bế tắc, một phần do chính phủ Pháp dựa vào sức mạnh chỉ muốn công nhận Việt Nam là một nước tự do thân hữu với Pháp. Sau đó từng bước trao trả dần chủ quyền độc lập cho Việt Nam như họ đã thực hiện đối với 5 tỉnh thuộc địa của họ ở Ấn Độ. Sự nhượng bộ quá sớm ở Đông Dương sẽ nguy hại đến ảnh hưởng của Pháp ở các thuộc địa còn lại. Mặt khác là do thái độ cứng rắn của chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ sự nhận định chủ quan. Ông hy vọng tình hình nội chính Pháp sẽ có thay đổi lớn sau cuộc tổng tuyển cử tháng 11/1946. Lúc bấy giờ, đảng Cộng sản Pháp là đảng mạnh nhất trong quốc hội và hiện có 4 đảng viên tham gia chính phủ. Vì thế rất có thể Pháp sẽ thừa nhận Đông Dương độc lập và ký một bản hiệp ước thân thiện để giữ thể diện với quốc tế và cứu vãn quyền lợi kinh tế Pháp ở Đông Dương. 

Hội nghị Fontainebleau bế tắc. Trước lúc phái đoàn Việt Nam sắp sửa về nước, do yêu cầu của Hồ Chí Minh, bộ trưởng bộ Pháp quốc hải ngoại Maurice Moutet đã cùng chủ tịch Hồ Chí Minh ký một văn kiện ngoại giao gọi là Tạm ước (Modus vivendi) ngay trong đêm 14/9/ 1946 tại tư thất Moutet. Trong tạm ước 14/9/1946, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thừa nhận giá trị Thỏa ước 6/3, công nhận nước Cộng hòa Nam Kỳ cho đến lúc có cuộc trưng cầu dân ý tại đây. Trong lúc chờ đợi, các lực lượng Việt Minh tại Nam bộ phải tập trung vào những khu vực được chỉ định để giải giới chờ trưng cầu dân ý.  Hai bên cùng thỏa thuận giữ thái độ thân thiện cho đến tháng Giêng 1947 là thời hạn cuối cùng, hai bên sẽ tái tục cuộc đàm phán để kết thúc vấn đề Việt Nam bằng một hiệp ước chính thức.  

Những người lãnh đạo mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ cũng như ở miền Bắc đều không muốn giành độc lập cho đất nước bằng con đường hòa bình thương lượng với Pháp mà phải đánh đổ chế độ thực dân đế quốc theo đường lối do lãnh tụ Liên Xô Stalin vạch ra. Vì thế từ hội nghị sơ bộ ở Đà Lạt đến hội nghị chính thức ở Fontainebleau phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn đòi hỏi Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam và thống nhất đất nước ngay. Đòi hỏi cứng rắn này nhằm làm tan vỡ đàm phán để phát động chiến tranh.  

Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh là người hiền lành. Trong quyển Histoire d’Une Paix Manquée, trang 231, Sainteny thừa nhận ông Thinh là một người yêu nước, lúc đầu hợp tác với Bùi Quang Chiêu thành lập đảng Lập hiến năm 1919. Đến năm 1937 trong phong trào Dân chủ Đông Dương, ông cùng bác sĩ Trần Văn Đôn thành lập Đảng Dân chủ Đông Dương. Những nhân vật này đều là những người Việt yêu nước có uy tín lớn trong chính giới ở Paris. Pháp sẵn sàng trao trả độc lập cho Việt Nam thông qua những người hấp thụ văn hóa Pháp có thái độ ôn hòa. Nhưng việc này sẽ làm hỏng mưu đồ của Cộng sản Việt Nam, nên ông Hồ Chí Minh ở miền Bắc và Trần Văn Giàu ở miền Nam đều chớp thời cơ cướp được chính quyền hồi tháng 8/1945, và ra tay sát hại nhiều trí thức Tây học có khuynh hướng ôn hòa. 

Cộng hòa Nam Kỳ là một thực thể chính trị của lịch sử, góp phần tích cực trong cuộc đấu tranh giành độc lập bằng đường lối ôn hòa. Bác sĩ Thinh đã hành xử theo phương châm người xưa “Gặp thời thế thế thời phải thế” vì lợi ích đất nước. Nhưng cộng sản lên án ông làm tay sai cho Pháp, trong khi nhóm người Pháp quá khích trong hội đồng Tư vấn Nam Kỳ chỉ trích ông còn “vương vấn với quốc gia Việt Nam” (Lê Trọng Quát, “Cuộc chiến thứ nhất 1945-1954”, Tr. 273). Ngoài ra phe Quốc gia lẫn Cộng sản còn có định kiến, cho ông có đầu óc kỳ thị, gán cho ông nhãn hiệu phân ly, địa phương cục bộ vì chủ trương thành lập Nam Kỳ Quốc.  

Trường hợp điển hình cho thấy dân Nam Kỳ có kỳ thị hay không? Năm 1948 ông Vũ Quốc Thúc gởi đơn xin thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cho ông được sang Pháp du học để hoàn tất học vị tiến sĩ. Ông Xuân hứa sẽ tìm cách giúp ông Thúc được toại nguyện. Sáu tháng sau, thủ tướng cử ông làm công cán ủy viên trong văn phòng thủ tướng Quốc gia Lâm thời ở Paris.  Ông cùng vợ sang Paris, ông được chính phủ trả lương để có điều kiện tiếp tục việc ăn học. Năm 1952 dưới thời thủ tướng Trần Văn Hữu ông được chính phủ Quốc gia cấp phương tiện để trở về nước sau khi ông đậu bằng tiến sĩ Luật và thạc sĩ Kinh tế. 

Vấn đề phân biệt Nam Bắc là do hoàn cảnh lịch sử tạo ra, xuất phát từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài gần 250 năm (1558-1802). Đất nước thống nhất sau chiến tranh của chúa Nguyễn Ánh, đất đai phương Nam lại trù phú. Những điểm này khiến một số người trong giới cựu thần của vua Lê, chúa Trịnh ở đất Bắc và cả Tây Sơn ở miền Trung, không ít thì nhiều có mặc cảm đối với dân miền Nam. Đất nước thống nhất chỉ kéo dài 60 năm, đất Nam Kỳ lại rơi vào tay Pháp. Nơi đây là đất thuộc địa. Trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp được mở rộng khắp nơi. Pháp lại ra lịnh cưỡng bách con em các gia đình khá giả phải đi học chữ Pháp, còn những gia đình nghèo được cấp học bổng. Vì thế dân trí miền Nam phát triển cao, nhiều người tốt nghiệp khoa bảng ở Pháp; thành phố Sàigòn nổi tiếng khắp cõi Đông Á là Hòn ngọc Viễn Đông, khiến một số người có quyền thế ở đất Bắc và Trung Kỳ cảm thấy thua sút, sanh lòng ganh tỵ, tìm cách chê bai.  

Thử tìm hiểu người xưa nhận xét dân Nam Kỳ như thế nào, cũng như quan sát cách sanh hoạt của họ, có thể thấy dân Nam Kỳ có kỳ thị hay không? Trong quyển “Gia Định Thành Thông Chí” viết vào khoảng 1820, Trịnh Hoài Đức ghi nhận: “Vùng Gia Định nước Việt Nam đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ, nhà nào tục ấy…Gia Định có vị trí nam phương dương minh, nên con người khí tiết trung dung, trọng nghĩa khinh tài”. 

Ngoài ra, sự sống chung với người Tàu và Miên khiến người Nam Kỳ học được tính hiếu khách của hai sắc dân này. Theo giáo sư Lâm Văn Bé “Bản chất hiếu khách còn là nhu cầu sinh tồn của con người lưu dân tại vùng đất mới. Trước những khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân cần sống có nhau, tương trợ nhau. Khi mới gặp nhau, dù chưa quen biết bao giờ, dân miền Nam đều cơm nước trà rượu như đã là người bà con ruột thịt. Tánh hiếu khách hào phóng của dân Nam Kỳ là do sự trù phú, mầu mỡ của ruộng vườn và tài nguyên dễ kiếm, làm chơi mà ăn thiệt”. 

Nhà văn Sơn Nam trong quyển “Cá tính của miền Nam” (trang 106) lý giải bản tánh hiếu khách của họ xuất phát từ nếp sanh hoạt của Thiên Địa Hội -Tổ chức “phản Thanh phục Minh” mà người Minh Hương mang đến miền Nam Việt Nam: “Ăn cơm nhà lo việc ngoài đường, sống chết nhờ anh em, tận tình giúp đỡ bạn. Trút cả tâm sự với bạn kết nghĩa thì không có gì đáng ngại, đã là bè bạn với nhau rồi làm sao có chuyện phản bội. Gặp chuyện bất bình hoặc như bạn nào bị kẻ khác ăn hiếp thì nổi nóng, trả thù cho bạn vô điều kiện, đó là đạo nghĩa giang hồ, là điệu nghệ anh em kết nghĩa, tứ hải giai huynh đệ”. 

Sau thời Nam Kỳ thuộc địa chuyển sang Cộng hòa Nam Kỳ là một bước tiến của lịch sử, vừa góp phần trong cuộc đấu tranh giành độc lập bằng đường lối ôn hòa, tránh thảm họa chiến tranh. Nhưng phe Quốc gia lẫn Cộng sản đều công kích bác sĩ Nguyễn Văn Thinh chủ trương phân ly, lập Nam Kỳ Quốc, chia rẽ dân tộc khiến ông uất ức, không ai hiểu được thiện ý của mình, nên treo cổ quyên sinh để minh oan.  

Nổi bất hạnh bắt đầu đổ lên đầu dân tộc vì hận thù, chia rẽ, đố kỵ. Yếu tố nhân hòa bắt đầu sứt mẻ. Chỉ hơn một tháng sau ngày bác sĩ Thinh quyên sinh (10/11/1946) ông Hồ Chí Minh kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (20/12/1946) khởi đầu 43 năm chiến tranh (1946-1989), xuất phát từ sự mất đoàn kết vì mối bất đồng về đường lối đấu tranh giành độc lập. Trong thời gian đó, những người đồng chí hướng với bác sĩ Nguyễn Văn Thinh như nhà báo Nguyễn Phan Long, tướng Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm…tiếp tục con đường đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. 

Ông Hồ Chí Minh giành được chính quyền và đứng ra thương thuyết với Pháp là phù hợp với chủ trương của các nước Đồng minh thắng trận. Trong khi các lãnh tụ phe Quốc gia với lập trường cứng rắn “thắng hay chết, chớ nhất định không điều đình”, lên án Việt Minh phản bội dân tộc. Ông Hồ khôn ngoan, khi thương thuyết với Pháp, ông dựa vào lập trường của phe Quốc gia, để đòi Pháp phải thừa nhận Việt Nam độc lập và thống nhất ngay, nhằm chứng tỏ ông không phải là người phản bội dân tộc. 

Pháp chưa thể đáp ứng tức khắc đòi hỏi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Hồ liền phát động chiến tranh. Lòng yêu nước cuồng nhiệt của phe Quốc gia đã giúp ông Hồ Chí Minh thực hiện con đường của Quốc tế Cộng sản: giương ngọn cờ chống thực dân đế quốc, phát động chiến tranh giải phóng dân tộc sau Thế chiến II. Phe quốc gia trở thành kẻ tử thù của cộng sản. Mối hận thù Quốc Cộng ngày càng phát triển, rất nhiều người quốc gia và nhóm Đệ tứ tranh đấu đã bị cộng sản sát hại ngay trong những năm đầu kháng chiến, khiến dân tộc chia rẽ nặng nề và còn di hại lâu dài đến ngày hôm nay. 

Cuộc đấu tranh ngoại giao với Pháp bất thành là do sự chia rẽ của các đảng phái đã đứng ra lãnh đạo đất nước lúc bấy giờ. Sau Thế chiến II, chính giới Pháp vốn đã thiển cận trong việc trao trả độc lập cho các thuộc địa, họ lại càng ngoan cố hơn khi thương thuyết vấn đề này với những người bản xứ luôn chia rẽ đố kỵ nhau. Trước lúc đàm phán, thay vì đoàn kết nội bộ để ủng hộ mặt trận ngoại giao, các đảng phái lại công kích nặng lời với nhau. Không những sự xung đột diễn ra giữa cộng sản và các đảng phái có khuynh hướng quốc gia mà chính các đảng phái quốc gia cũng thiếu sự đoàn kết và thành thật hợp tác với nhau. Một tác giả Tây phương nghiên cứu về nội tình Việt Nam hồi năm 1945 đã nhận xét rằng thành phần lãnh đạo các đảng phái quốc gia thì yếu kém bất lực, lại có “truyền thống hục hặc với nhau“.

Điều này cũng được Nguyễn Mạnh Côn, một nhân chứng đã từng hợp tác với Việt Minh chiến đấu chống thực dân Pháp trong giai đoan 1945-54 ghi nhận trong hồi ký lịch sử của ông: “Những lãnh tụ quốc gia trong cùng một mặt trận mà không bao giờ thành thật với nhau đã nhiều lần làm cho cả mặt trận điên đảo“. Ông đơn cử thí dụ hồi cuối năm 1945, Việt Minh lo ngại việc tổ chức bầu cử Quốc hội không xong nên điều đình với mặt trận Quốc gia sẽ dành cho họ 70 ghế đại biểu, trong đó 50 cho Việt Quốc và 20 cho Việt Cách. Mặt trận Quốc gia họp bàn và đồng thanh không nhận. Nhưng sau đó các lãnh tụ Việt Quốc đột nhiên và tự ý riêng nhận 50 ghế. Nguyễn Hải Thần lại bị phe Bồ Xuân Luật theo Việt Minh nại danh nghĩa là ủy viên thường vụ của Việt Cách đòi chia 10 ghế, rốt cuộc các đảng phái khác trong Đồng minh Hội chỉ còn 10 ghế. Hai tháng sau, Mặt trận Quốc gia chống đối việc ký Hiệp ước sơ bộ với Pháp. Nguyễn Hải Thần từ chức Phó Chủ tịch chính phủ liên hiệp để phản đối Việt Minh trong khi Vũ Hồng Khanh lại hăng hái cùng Hồ Chí Minh ký vào thỏa hiệp ấy.

Chính sự yếu kém của các đảng phái quốc gia đã tiếp tay ông Hồ Chí Minh thực hiện điều mà người cộng sản gọi là chủ trương “hòa để tiến” nhằm loại bỏ những người quốc gia yêu nước để giành độc quyền lãnh đạo dân tộc nhằm lèo lái nhân dân đi theo con đường do họ vạch ra. Năm 1945, họ Hồ ve vuốt bọn tướng lãnh Trung Hoa, giải tán đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính phủ Liên hiệp Quốc Cộng, để hợp pháp hóa vai trò lãnh đạo chính quyền của đảng Cộng sản.  

Đến khi Pháp trở lại miền Bắc, ông Hồ Chí Minh bắt tay thương lượng với Pháp và mượn Pháp thanh toán những người quốc gia. Hồ Chí Minh đã nói với Sainteny: “Pháp sẽ chịu nhiều thiệt thòi hơn nếu phải thương lượng với các phe phái quốc gia”. Ông cho rằng người quốc gia lúc nào cũng đòi hỏi rất nhiều trong khi Việt Minh chỉ có những đòi hỏi vừa phải.

Khi cuộc thương lượng với Pháp tan vỡ, trước khi rời Pháp về nước, ông Hồ Chí Minh khẩn khoản yêu cầu Moutet ký bản Tạm ước 14/9 (1946) để tránh tiếng cuộc đàm phán thất bại đưa đến sự tan rã trong mối bang giao Việt Pháp. Ông đã nài nỉ Moutet: “Xin đừng để tôi về tay không như thế này. Xin hãy vũ trang cho tôi để tôi chống lại những kẻ đang muốn qua mặt tôi. Quý vị sẽ không phải hối tiếc gì vì đã giúp tôi như thế“.  

Lê Quế Lâm

(Còn tiếp phần III)

About the author