Một số trí thức phản bác công khai chủ nghĩa Marx-Lenin (Âu Dương Thệ)

Sụp đổ bức tường Berlin (1989)

Một chuỗi những vấn đề gai góc diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị ĐH 7- nhất là về lãnh vực quốc tế với sự tan rã của Liên xô và thế giới CS cùng với việc HK nghiễm nhiên trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới cả trong kinh tế, ngoại giao lẫn quân sự-, trở thành đối tượng tranh luận gay gắt ở cấp trung ương và các chuyên viên cao cấp trong bộ máy toàn trị trong việc soạn thảo Báo cáo Chính trị, Chiến lược Kinh tế, Cương lĩnh Chính trị mới, Hiến pháp mới. Dĩ nhiên dưới chế độ toàn trị không thể nào có được những cuộc tranh luận công khai và thẳng thắn giữa các khuynh hướng trong đảng và xã hội như trong một xã hội DCĐN về những vấn đề cốt lõi tới vận mạng đất nước và nhân dân cả trước mắt, trung hạn lẫn dài hạn. Mặc dầu vậy, vào thời điểm này Tạp chí Cộng sản (TCCS), “cơ quan lí luận và chính trị của TUĐ CSVN”, đã tổ chức một số cuộc “Tọa đàm” để thảo luận về hướng đi, đường lối và chính sách của chế độ. Thành phần tham gia các cuộc tọa đàm là một số nhà lí luận hàng đầu và chuyên viên cao cấp trong các Ban TU của Đảng, các đại học, viện nghiên cứu…

Hơn nửa năm trước khi ĐH 7 diễn ra TCCS đã tổ chức cuộc “Tọa đàm” về “Dự thảo Cương lĩnh và Dự thảo Chiến lược” [Tên chính thức là “Dự thảo Cương lĩnh xây dựng CNXH  trong thời kì quá độ” và “Dự thảo Chiến lược đến năm 2000”] vào ngày 2.1.91, tức là vài tháng trước khi các văn kiện này được công bố để “xin ý kiến nhân dân”. Nghĩa là một số chuyên viên đã tham gia soạn thảo hoặc đã đọc kĩ các văn kiện dự thảo của ĐH.  Nhưng mãi hai tháng sau Tạp chí này mới công bố một phần các bài tham luận và thảo luận của các tham dự viên; như GS toán học Phan Đình Diệu (Ủy viên của Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ), Lưu Văn Đạt (chuyên viên kinh tế cao cấp bộ Thương nghiệp, (Lê) Hồng Hà (chuyên viên kinh tế cấp cao, bộ Lao động Thương binh Xã hội, sau này là người đấu tranh dân chủ), Đậu Quý Hạ (chuyên viên kinh tế bộ Lao động Thương binh Xã hội), TS Nguyễn Thành Bang (Ban Kinh tế TU) và giáo sư kinh tế Đào Xuân Sâm (từng là Tổ trưởng nhóm Tư vấn của TT Võ Văn kiệt). Trong lời giới thiệu ngắn TCCS đã cho biết mục tiêu, tinh thần và không khí cuộc tọa đàm này: “Những người dự cuộc  tọa đàm đã phát biểu ý kiến sôi nổi, mạnh dạn xoay quanh những nội dung cơ bản, trước hết về kinh tế, mà hai bản dự thảo đã nêu ra. Trên tinh thần tôn trọng tự do tư tưởng, chúng tôi đăng một số ý kiến trong cuộc tọa đàm đó.”

Phan Đình Diệu phê bình thẳng thắn việc ghi một cách rất chung chung trong Cương lĩnh Chính trị cũng như các văn kiện dự thảo quan trọng của ĐH 7 về “CNXH” và “định hướng XHCN”:

“Theo ý kiến tôi, một khi chưa có quan niệm rõ ràng về CNXH thì chúng ta không thể tự tin mà nói về định hướng XHCN. Do đó, khi nói về định hướng XHCN thì ít nhất, chúng ta phải xác định  được trên những nét lớn khái niệm ấy là như thế  nào? Thực tế trên thế giới trong một thế kỉ qua, người ta cũng đã tiếp cận khái niệm CNXH theo nhiều cách. Ở nước ta và nhiều nước anh em trước đây, CNXH được hiểu một cách sai lạc, không hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa Mác-Lê-nin. Còn ở Tây Âu, Mĩ, Bắc Âu…người ta cũng nói nhiều về CNXH nhưng theo một quan niệm khác.[1]

Tiếp theo ông Diệu còn đặt lại vấn đề căn bản là, có nên dùng chủ nghĩa Marx-Lenin tiếp tục không: “Tôi suy nghĩ không biết có nên coi chủ nghĩa Mác-Lê-nin là nền tảng lí luận  duy nhất cho Cương lĩnh của chúng ta như từ trước tới nay nữa hay không?” Tuy ông thừa nhận Marx là một nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại, nhưng khẳng định “cái vĩ đại nào cũng có sự hạn chế của nó”. Ông Diệu dẫn chứng là, “có rất nhiều điều mới mà thời kì Mác chưa có. Chẳng hạn như sự bùng nổ thông tin làm cho chúng ta thấy rằng, xã hội của chúng ta phức tạp hơn rất nhiều so với những gì chúng ta đã hình dung trước đây. Đây là những yếu tố mà thời Mác chưa có.  Hơn nữa trong Thế kỉ 20 này, trí tuệ của loài người đã phát triển ghê gớm lắm, buộc chúng ta phải xem xét lại những mặt hạn chế của một kết luận này hay kết luận khác về kinh tế-xã hội, thậm chí cả về mặt khoa học trong những luận điểm cụ thể của Marx, Angels, Lenin[2]

Trong khi ấy Đậu Quý Hạ dùng câu nói của ông Hồ nói về mục tiêu cuộc tranh đấu của người CS là “độc lập, tự do, hạnh phúc” cho tổ quốc và nhân dân, trong đó “CNXH hay bất kì chủ nghĩa nào khác- chỉ là phương tiện để đạt mục tiêu đó.” Từ đó ông Hạ cảnh cáo nghiêm khắc, “lẫn lộn phương tiện và mục tiêu, lấy phương tiện làm mục tiêu, là một sai lầm tai hại, là nguồn gốc gây ra mọi sai lầm khác”. Như vậy trong cuộc Tọa đàm của TCCS ông Hạ đã phê bình thẳng là, hiện nay những người có trách nhiệm của chế độ toàn trị đã đánh tráo phương tiện thành mục tiêu so với ban đầu; tức là lúc đầu ĐCS đặt mục tiêu cho cuộc cách mạng là đánh đổ thực dân, giành độc lập, tư do, dân chủ. Nhưng từ khi nắm được chính quyền thì ĐCS lật ngược thứ tự, lấy thực hiện CNXH làm mục tiêu, đang bắt nhốt nhân dân vào trong cái rọ CNXH; vì cố tình đánh tráo như vậy nên tuy đất nước độc lập nhưng nhân dân mất tự do, hạnh phúc. Nói một cách khác, Đậu Quý Hạ đã ám chỉ, nhóm cầm đầu CSVN ngay từ thời HCM đã phản bội lời thề với nhân dân là chỉ đấu tranh cho mục tiêu “độc lập, tự do, hạnh phúc” cho tổ quốc và nhân dân.[3]

Trong khi đó cũng trong cuộc Hội thảo trên của TCCS, ông Hồng Hà chỉ trích nghiêm khắc các phê bình giả vờ của những người có trách nhiệm trong đảng từ trước tới nay và điều này có thể thấy lại ngay trong soạn thảo Cương lĩnh Chính trị: “Tôi không đồng ý cách nói như trong Dự thảo Cương lĩnh là, đường lối chung thì hoàn toàn đúng, chỉ sai về chỉ đạo chiến lược và đường lối cụ thể thôi.”  Ông vạch rõ thêm:    

“Trong Dự thảo Chiến lược thì kết luận: Nguyên nhân của tất cả những cái gì tồn tại, kém cỏi, sai lầm, khuyết điểm ấy là ở chỗ chúng ta theo một mô hình CNXH giáo điều. Đã theo một mô hình CNXH giáo điều mà lại nói đường lối chung là đúng thì thật là khó hiểu. Tôi cho rằng, trong 15 năm qua đường lối kinh tế của chúng ta có những cái sai, và ngay cả đường lối đối ngoại cũng có những cái trệch. Về vấn đề này, Dự thảo Cương lĩnh và Dự thảo Chiến lược hầu như không nói tới, coi như không có khuyết điểm sai lầm gì cả!” (tr.19). Hồng Hà còn nhận định, còn “đặc trưng của thời kì 1986-1990 là gì? Là vừa muốn cởi vừa muốn trói lại!” ( tr.18). Trong cuộc bàn về Dự thảo Cương lĩnh Hồng Hà đã chia sẻ với Phan Đình Diệu và Đậu Quý Hạ và còn đề nghị thẳng: “Có lẽ chúng ta chỉ nên coi chủ nghĩa Mác-Lê-nin như một nguồn nhận thức mà thôi. Chúng ta còn phải có trách nhiệm tiếp thu kiến thức của nhân loại và cả những tri thức của dân tộc ta trong mấy ngàn năm qua.[4]

Nhưng trong TCCS số tháng 4.1991 dưới tựa đề “Vài điều cần nói lại” Ban biên tập TCCS đã giành hơn một trang để cải chính về một số nhận định trên đây của một số nhà khoa học tên tuổi trong cuộc tọa đàm 2.1.91. Trong đó đặc biệt Phan Đình Diệu và Hồng Hà đã bị phê bình đích danh, vì đã dám đặt lại vai trò của hệ tư tưởng Marx-Lenin. Sau khi nhắc lại nhận định của Phan Đình Diệu “Có nên coi chủ nghĩa Mác-Lê-nin là nền tảng lí luận duy nhất cho Cương lĩnh của chúng ta như từ trước tới nay nữa hay không” và Hồng Hà có phần dứt khoát hơn: ”Có lẽ chúng ta chỉ nên coi chủ nghĩa Mác-Lê-nin như một nguồn nhận thức mà thôi.” Ban Biên tập TCCS viết tiếp: “Chúng tôi cho rằng:…Chính vì vậy, nó [hệ tư tưởng Marx-Lenin] là hệ tư tưởng duy nhất của ĐCS, đội tiên phong của giai cấp công nhân. ĐCS không có hệ tư tưởng nào khác ngoài hệ tư tưởng Mác-Lê-nin…” [5]

Sự kiện này cho thấy, Ban Tuyên huấn khi ấy theo lệnh của những người cầm đầu trong BCT khi đó đã ra lệnh cho TCCS phải làm công việc đính chính lại cuộc Hội thảo ngày 2.1.1991 của một số trí thức dám nói thẳng, nói thực về “Dự thảo Cương lĩnh xây dựng CNXH  trong thời kì quá độ” và “Dự thảo Chiến lược đến năm 2000”.

So sánh việc chuẩn bị Cương lĩnh Chính trị 1992  trước ĐH 7 với việc chuẩn bị “Sửa đổi Cương lĩnh Chính trị 1992” trước ĐH 11 thì trước ĐH 7 tương đối có dân chủ hơn. Vì đã có những cuộc tọa đàm ngay trong TCCS và được công bố ra ngoài một phần. Còn trước ĐH 11 thì không, khiến một số trí thức XHCN phải hội thảo kín. Như thế có thể hiểu, khuynh hướng dân chủ bị giảm trong đảng, nhưng lại đang mở rộng trong xã hội (xem Chương sáu, XII).

Đứng trước các thách đố gai góc cả trong đối ngoại, đối nội, kinh tế….vào cuối thập niên 80 nên Báo cáo Chính trị và Kế hoạch Kinh tế của ĐH 7, cũng như các Dự thảo Hiến pháp và Cương lĩnh chính trị 1992 đã phản ảnh một phần những tranh luận trong trung ương và cho thấy khuynh hướng nào, bảo thủ hay cấp tiến, đã nắm thượng phong trong thời gian tới.


[1] .  Tiến tới ĐH 7, góp ý xây dựng Cương lĩnh và Chiến lược. Tọa đàm về Dự thảo Cương lĩnh và Dự thảo Chiến lực.  TCCS 3.1991, tr. 16. Diễn đàn: https://www.diendan.org/tai-lieu/le-hong-ha/toa-  dam-1991

[2] . TCCS 3.1991, tr. 17

[3] . Nh.tr.

[4] . Nh.tr. tr. 18 t.t.

[5] ..TCCS 4.1991 tr. 11; Tôn Thất Thiện, “Luận bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh” trong Tin nhà 27.4.1997 có nói tới cả Hà Nghiệp, trợ lí của Trường Chinh và Đỗ Mười, tr. 29

About the author