Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều phát triển kinh tế theo ba giai đoạn chính.
Giai đoạn đầu tiên là chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp đơn giản. Ở giai đoạn này, các ngành sản xuất chủ yếu là những mặt hàng thiết yếu như quần áo, giày dép, thực phẩm, bàn ghế,… Những công việc này thường cần nhiều lao động nhưng không đòi hỏi tay nghề cao hay trình độ học vấn, vì vậy đã thu hút một lượng lớn lao động từ nông thôn lên thành phố làm việc. Do không yêu cầu kỹ năng chuyên môn, mức lương trong giai đoạn này thường rất thấp. Tuy nhiên, chính mức lương thấp lại trở thành lợi thế cạnh tranh quan trọng của quốc gia.
Giai đoạn thứ hai là quá trình chuyển mình từ công nghiệp đơn giản sang công nghiệp kỹ thuật cao. Lúc này, nền kinh tế bắt đầu sản xuất các sản phẩm phức tạp hơn như tivi, điện thoại, máy tính hay xe hơi. Những công việc liên quan yêu cầu người lao động phải có tay nghề cao hơn, kéo theo mức lương tăng lên. Trong giai đoạn này, lợi thế không còn nằm ở chi phí nhân công rẻ mà phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và chất lượng nguồn nhân lực.
Giai đoạn cuối cùng là bước chuyển từ công nghiệp sang nền kinh tế dịch vụ. Lúc này, các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, thường từ 60% trở lên. “Dịch vụ” ở đây là một khái niệm rộng, bao gồm giáo dục, y tế, tài chính, du lịch, giải trí, bảo hiểm, luật, phần mềm và cả việc sử dụng tài sản trí tuệ như bản quyền hay sáng chế. Trong giai đoạn này, tri thức và sự sáng tạo là yếu tố quyết định, vì thế nền kinh tế này còn được gọi là “nền kinh tế tri thức”. Người lao động cần trình độ học vấn cao hơn, và lương cũng cao hơn so với lĩnh vực sản xuất.
Liên quan đến cuộc chiến thương mại dưới thời Tổng thống Mỹ Donald Trump, có một điểm thú vị là dù Mỹ bị thâm hụt thương mại hàng hóa với nhiều quốc gia, nhưng lại có thặng dư lớn trong xuất khẩu dịch vụ. Khi chúng ta mua máy tính, phải trả tiền bản quyền hệ điều hành Windows của Microsoft; các doanh nghiệp Việt Nam muốn chạy quảng cáo trên Facebook hay YouTube thì cũng phải chi trả cho Meta hoặc Google; hay khi xem một bộ phim Hollywood, tức là chúng ta đã trả tiền cho dịch vụ của Mỹ.
Ngoài ra, nhiều hàng hóa xuất khẩu từ các nước sang Mỹ thực chất lại là sản phẩm của các công ty Mỹ, ví dụ như iPhone hay giày Nike – nếu sản xuất tại Mỹ, giá thành sẽ đội lên rất cao, người tiêu dùng Mỹ sẽ là bên thiệt hại đầu tiên.
Trở lại chủ đề phát triển kinh tế, mỗi giai đoạn thường kéo dài khoảng 10–15 năm. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đều đã đi theo đúng lộ trình này. Việt Nam đã mở cửa nền kinh tế từ năm 1986, nhưng cho đến nay vẫn chủ yếu dừng lại ở giai đoạn một – sản xuất gia công và lắp ráp.
Vậy làm thế nào để Việt Nam chuyển sang giai đoạn tiếp theo? Có bốn điều kiện quan trọng để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững:
- Đảm bảo an ninh, trật tự và luật pháp: Một chính quyền cần có khả năng duy trì ổn định để thu hút đầu tư. Không ai muốn đầu tư vào một quốc gia đang hỗn loạn hoặc có nội chiến. Việt Nam hiện đã có được điều kiện này kể từ sau năm 1975.
- Bảo vệ quyền sở hữu tư nhân: Ở những quốc gia mà quyền sở hữu không được đảm bảo, nhà cửa, đất đai hay công cụ sản xuất có thể bị tịch thu bất cứ lúc nào, khiến người dân mất động lực lao động và sáng tạo. Việt Nam đã có bước tiến kể từ Đổi Mới năm 1986, nhưng quyền sở hữu đất đai vẫn chưa hoàn chỉnh vì đất vẫn thuộc “sở hữu toàn dân”.
- Khuyến khích đổi mới và sáng tạo: Đổi mới là nền tảng nâng cao năng suất, loại bỏ cái cũ kém hiệu quả để thay bằng cái mới tốt hơn. Tuy nhiên, điều này mâu thuẫn với bản chất của chế độ độc tài – vốn muốn giữ nguyên hiện trạng để duy trì quyền lực. Ở Việt Nam, sáng tạo nghệ thuật, văn học vẫn bị kiểm duyệt chặt chẽ, tinh thần sáng tạo bị bóp nghẹt. Trong khi đó, Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ cả về âm nhạc, điện ảnh, và đạt được các giải thưởng quốc tế danh giá như Oscar hay Nobel Văn học.
- Chống tham nhũng: Không quốc gia nào có thể phát triển nếu không xử lý được nạn tham nhũng. Tham nhũng làm hỏng các dự án, đưa người bất xứng lên nắm quyền và trao cơ hội kinh doanh cho nhóm lợi ích. Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia tham nhũng nghiêm trọng, điển hình là các vụ hối lộ hàng triệu USD ở cấp lãnh đạo cao.
Thực tế đã chứng minh, một chính quyền đã tham nhũng nặng nề thì rất khó có thể tự thay đổi. Trong chế độ dân chủ, người dân có thể thay đổi chính quyền thông qua bầu cử. Nhưng trong chế độ độc tài, cần phải tạo áp lực để chính quyền chấp nhận tổ chức bầu cử tự do.
Tóm lại, lý do Việt Nam tụt hậu so với các nước là do thiếu môi trường tự do để khuyến khích sáng tạo, thiếu cơ chế thay đổi chính quyền nếu không minh bạch, và chưa đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi của đảng cầm quyền.
Nguyễn Trần Đặng
(12/04/2025)