
Điều nhức nhối nhất của chúng ta là tình trạng lạc hậu và nghèo khổ. Do đó trọng tâm của mọi cố gắng quốc gia phải là phát triển, và một cái nhìn thấu đáo về vấn đề phát triển là vô cùng quan trọng.
Một nửa nhân loại vẫn còn đang sống trong nghèo khổ, gần một phần tư đang sống trong nghèo khổ cùng cực. Cách đây hai thế kỷ, ngay tại các nước phát triển nhất, quá phân nửa dân số đã chết trước tuổi dậy thì. Phát triển như vậy là một hiện tượng rất mới tại một số nước nhờ một số điều kiện đặc biệt mà chúng ta cần nhận diện để nắm bắt.
Trước hết, chúng ta hiểu phát triển như thế nào ?
Phát triển là một thay đổi liên tục và kéo dài trong thời gian, cho phép sử dụng ngày một hữu hiệu hơn tài nguyên và nhân lực, đem lại cho quốc gia lợi tức ngày một lớn hơn và cho con người cuộc sống ngày càng cao hơn về cả vật chất lẫn tinh thần.
Phát triển là một khái niệm tương đối. Một quốc gia được coi là phát triển khi đạt thành tích cao so với phần còn lại của thế giới về lợi tức bình quân trên mỗi đầu người, về giáo dục, y tế, gia cư và cơ sở hạ tầng, khi hoạt động kinh tế mạnh và hiện đại, môi trường sinh sống sạch và đẹp, các phương tiện di chuyển, thông tin, học hỏi và giải trí dồi dào.
Phát triển, ngay cả với định nghĩa trên đây, cũng không phải là tất cả. Sự thành công của một quốc gia, ngoài phát triển, còn là sự kiện mọi người gắn bó một cách tự nguyện trong cố gắng xây dựng một tương lai chung và mỗi người cảm thấy được làm chủ đời mình, được sống theo ý mình, được quí trọng trong một xã hội không đe dọa, được hưởng phúc lợi do cố gắng của mình, được bảo đảm những cơ hội thăng tiến công bình, và có lý do để tin rằng ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay và cuộc sống của con cái mình sẽ hơn cuộc sống của mình. Đó là mục tiêu chúng ta muốn đạt tới.
Phát triển không phải chỉ là sự gia tăng tổng sản lượng quốc gia. Do đó, một mức độ tăng trưởng 5% của tổng sản lượng quốc gia với những hệ thống giáo dục và y tế hoàn chỉnh, môi trường thiên nhiên được bảo vệ và cải thiện, lợi tức được phân chia tương đối công bằng, phải được đánh giá là tốt hơn nhiều lần một tăng trưởng 15% trong đó mọi vấn đề văn hóa, xã hội và môi sinh bị bỏ rơi. Một thí dụ cụ thể là trường hợp của Trung Quốc. Mức độ tăng trưởng tuy khá cao, nhưng sự thiệt hại gây ra cho môi trường nếu qui ra chi phí để phục hồi còn cao hơn. Sự chênh lệch giàu nghèo quá lố và sự chênh lệch giữa các vùng ngày càng trở thành báo động, thêm vào đó là một phần đáng kể dân số trở thành du mục sống vất vưởng trên các hè phố hay các khu tập trung đột xuất tại các vùng ngoại ô. Chúng ta không thể chấp nhận một tăng trưởng như thế. Chúng ta tìm kiếm một phát triển hài hòa và cân bằng, bởi vì chỉ có phát triển đó mới có thể bền vững và mới xứng đáng được coi là một mục tiêu quốc gia.
Tuy phát triển không phải chỉ là phát triển kinh tế, nhưng phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng nhất và cũng là chìa khóa cho phát triển cân đối toàn bộ. Chúng ta là một trong những dân tộc nghèo khổ và chậm tiến nhất nên phát triển kinh tế là mục tiêu cấp bách nhất đối với chúng ta.
Chúng ta cần đánh tan ngay một lấn cấn tai hại.
Bịp bợm lớn nhất vẫn còn tiếp tục tại là luận điệu cho rằng một xã hội muốn tiến nhanh cần một chế độ độc tài sáng suốt, cần đình hoãn xây dựng dân chủ và hy sinh một số tự do căn bản. Bịp bợm này đã là nguyên nhân của những tang tóc ghê gớm. Nó đã tạo ra và nuôi dưỡng các chế độ phát xít quân phiệt tại Ý, tại Đức và tại Nhật. Nó đã giúp cho phong trào cộng sản nảy sinh, phát triển và tồn tại. Nó đã tiếp tay duy trì các chế độ độc tài tại Châu Mỹ La Tinh và Châu Á trước đây. Và nó vẫn đang được dùng làm chỗ dựa lý luận của nhiều chế độ độc tài khác, trong đó có Việt Nam.
Những chế độ này đã chỉ đem lại những kết quả tồi tệ. Các chế độ độc tài tại Ý, Đức và Nhật đã tích lũy mâu thuẫn, đã bế tắc và phải lao đầu vào các cuộc chiến tự hủy. Chế độ cộng sản tại Liên Xô đã hủy hoại tài nguyên, môi trường, đã đày đọa dân chúng rồi sụp đổ. Tất cả những chế độ độc tài khác đều có một thành quả giống nhau : nghèo khổ, lạc hậu và áp bức.
Sự thực, phát triển là hậu quả của tự do và dân chủ. Nhưng vì tự nó phát triển cũng thúc đẩy và phát huy tự do dân chủ nên dễ có ngộ nhận giữa hậu quả và nguyên nhân đưa đến sự nhẫn nhục sai lầm là hãy tạm chấp nhận độc tài để có phát triển rồi sau đó phát triển sẽ đem tới dân chủ. Sự ngộ nhận này đã bị các tập đoàn độc tài khai thác.
Kinh nghiệm của các dân tộc chứng minh dân chủ và phát triển đi đôi với nhau.
Hiện tượng phát triển trên qui mô quốc gia đã bắt đầu xuất hiện tại Châu Âu và Hoa Kỳ sau khi những xã hội đặt nền tảng trên dân chủ được thành lập. Nguyên nhân đã làm nảy sinh ra phát triển là trọng lượng của nhà nước trong đời sống thường ngày được giảm nhẹ, một hiến pháp dân chủ và ổn vững được thượng tôn, luật pháp thay thế cho các quyết định tùy tiện của người cầm quyền, con người được tôn trọng và được bảo vệ, kinh tế hoạt động theo qui luật của thị trường, hoạt động kinh doanh được tôn vinh, buôn bán và trao đổi được đề cao, ý kiến và sáng kiến được khuyến khích và tưởng thưởng, lợi nhuận được nâng lên hàng một giá trị.
Quốc gia Châu Á duy nhất đã bắt kịp các nước phương Tây ngay đầu thế kỷ 20 là Nhật đã phát triển được nhờ mau chóng chấp nhận sinh hoạt kinh tế phương Tây. Dưới cái vung thống trị của một giai cấp hiệp sĩ kiêu căng sống tách rời hẳn khỏi quần chúng, một xã hội dân chủ đã âm thầm hình thành giữa đại đa số người Nhật và đã khiến cho nước Nhật vươn lên ngay từ thế kỷ 18, rồi vươn lên mạnh mẽ từ nửa sau thế kỷ 19.
Sự kiện hai chế độ phát xít Ý và quốc xã Đức đã đem lại một số tiến bộ lúc ban đầu, và chế độ quân phiệt Nhật đã duy trì được phát triển trong vài thập niên, giúp ta nhận diện một yếu tố khác của phát triển vốn đã có trong những phát triển trước đây : đồng thuận dân tộc. Cả ba dân tộc này vào thời điểm đó đều cùng bực tức vì thua kém và đều có được những lãnh tụ đủ sức lôi cuốn để đoàn kết họ trong một cố gắng chung.
Kinh nghiệm của các nước vừa phát triển tại Châu Á cần được nhìn một cách chính xác bởi vì, trái với nhận định hời hợt của một số người và trái với giải thích gian trá của các chế độ độc tài, các quốc gia này đã phát triển được vì họ đã dân chủ hơn và tự do hơn các nước chậm tiến khác, dù có thể chưa đạt tới dân chủ trọn vẹn và đúng nghĩa.
Các nước Châu Mỹ La Tinh với tài nguyên phong phú đã quằn quại trong hơn một thế kỷ rưỡi trong lạc hậu dưới các chế độ độc tài và đã chỉ vươn lên từ thập niên 1980 nhờ dân chủ.
Tại Châu Âu, ba nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp, vì vướng mắc vào các chế độ độc tài mà đã tụt hậu bi đát ; họ đã chỉ vươn lên từ thập niên 70 nhờ vứt bỏ được ách độc tài.
Ngay cả những tiến bộ kinh tế được ghi nhận gần đây tại Trung Quốc và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ : chúng đã có được nhờ kinh tế thị trường và nhờ một mức độ tự do lớn hơn.
Kinh nghiệm của mọi dân tộc đã chứng minh : dân chủ, quyền tư hữu, kinh tế thị trường, nhà nước nhẹ là những yếu tố làm nảy sinh ra phát triển kinh tế.
Nhưng kinh nghiệm cũng cho thấy cùng những yếu tố ấy đã tạo ra những phát triển kinh tế khác nhau về vận tốc và về cường độ tại các quốc gia khác nhau, và nhiều quốc gia với điều kiện thiên nhiên bất lợi đã phát triển mạnh mẽ hơn những quốc gia khác, cũng dân chủ và còn có tài nguyên phong phú hơn nhiều. Các yếu tố tâm lý và văn hóa đã đóng góp vai trò quyết định.
Sau khi đã quan sát lịch sử của các dân tộc chúng ta cũng có thể tiếp cận hiện tượng phát triển bằng lý luận kinh tế.
Phát triển kinh tế đòi hỏi ba yếu tố vừa cần vừa đủ : con người có ước muốn kinh doanh, có thể kinh doanh, và có phương tiện để kinh doanh.
Để ước muốn kinh doanh người dân cần một bối cảnh tâm lý thuận lợi : hoạt động kinh doanh được xã hội quí trọng, ý kiến và sáng kiến được đề cao, sự chấp nhận rủi ro được tôn vinh ; họ cũng cần có lý do để lạc quan tin tưởng rằng kinh doanh sẽ có lợi và lợi tức đó sẽ là của họ. Nói một cách khác, để kinh doanh, cùng với một bối cảnh kinh tế lạc quan, nhà kinh doanh cần một tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh doanh và một bảo đảm chắc chắn về quyền tư hữu. Yếu tố khởi động này của phát triển giải thích tại sao các nước cộng sản đã suy sụp vì không tôn trọng quyền tư hữu. Nhưng quan trọng hơn, nó giải thích tại sao hiện tượng phát triển đã chỉ có tại một số quốc gia nhờ một tâm lý xã hội thuận lợi.
Để có thể kinh doanh, doanh nhân cần một xã hội có trật tự và an ninh, cần được luật pháp đảm bảo và được tự do hành động ; họ không thể bị trói buộc bởi quá nhiều qui định, không bị gò bó trong một kế hoạch quốc gia cứng chắc, không phải nộp thuế quá cao, không bị sách nhiễu bởi một guồng máy chính quyền tham nhũng. Chúng ta nhìn thấy ở đây sự cần thiết của một thể chế dân chủ pháp trị, của một hoạt động kinh tế thị trường thay vì kinh tế hoạch định, của một guồng máy nhà nước nhẹ. Nhưng chúng ta cũng nhìn thấy một lần nữa các yếu tố tâm lý : đạo đức và lương thiện. Tham nhũng cũng là hậu quả của sự suy đồi của đạo đức xã hội.
Người kinh doanh dĩ nhiên cũng cần có phương tiện, nghĩa là có nguồn nhân lực cần thiết với những khả năng cần có, có một cơ sở hạ tầng tốt, có vốn đầu tư, có một hệ thống tín dụng ngân hàng đắc lực để huy động vốn luân chuyển. Vốn đầu tư chỉ là một trong những yếu tố và cũng không phải là yếu tố quan trọng nhất. Vốn có ít thì đầu tư ít, và lợi nhuận sẽ đẻ ra vốn. Vả lại tư bản có trí khôn và lôgíc riêng của chính nó, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay ; ở đâu kinh doanh có lợi vốn sẽ tìm đến. Điều quan trọng hơn hết vẫn là con người, những con người thực thà, lương thiện, có kỹ năng và có tinh thần trách nhiệm. Một lần nữa yếu tố tâm lý và văn hóa là nòng cốt.
Nói chung, phát triển cần một bối cảnh tự do dân chủ và là một vấn đề chủ yếu văn hóa và tâm lý. Chính vì thế mà một số quốc gia dù tài nguyên ít ỏi, dù bị tàn phá ghê gớm vẫn vươn lên mạnh mẽ. Nước Đức và nước Nhật bại trận và tan hoang đã chỉ cần một vài thập niên để trở thành những nước phát triển nhất. Dân tộc Hòa Lan chen chúc trên một mảnh đất nhỏ với tài nguyên thiên nhiên ít ỏi cũng đã xây dựng được một trong những quốc gia phồn vinh nhất thế giới. Chính vì phát triển trước hết là một vấn đề văn hóa và tâm lý mà cho tới nay nó đã chỉ giới hạn ở một số quốc gia.
Cần phân biệt tâm lý và văn hóa với trí tuệ và kiến thức. Bẩm sinh con người có khả năng trí tuệ bằng nhau hay gần bằng nhau và do đó nhờ giáo dục có thể đạt tới một trình độ hiểu biết ngang nhau. Sự khác biệt là tâm lý và văn hóa, là các giá trị được trân trọng và thể hiện trong xã hội, là óc cầu tiến, tính chấp nhận rủi ro của kinh doanh, là tinh thần trách nhiệm, là cách ứng xử trong cuộc sống tập thể.
Chúng ta cần thay đổi xã hội và con người để có phát triển.
Chúng ta cần một xã hội dân chủ, quí trọng con người, đặt lòng tin ở con người, để cho con người tự do quyết định xây dựng đời mình. Chúng ta cần một nhà nước pháp trị, có luật pháp đầy đủ và không có quá nhiều thủ tục, chúng ta cần một cơ chế thị trường thay vì một kế hoạch áp đặt.
Chúng ta cần những con người tự do, trách nhiệm, lương thiện, gắn bó vào cộng đồng, cầu tiến và thi đua chứ không ghen tức và phá hoại. Chúng ta cần những con người ham thích kinh doanh, khao khát làm giàu một cách lương thiện.
Chúng ta cần một bộ máy kinh tế hoạt động không cưỡng chế. Nhà kinh doanh phải được phép tự do hành động theo các qui luật khách quan của kinh doanh và thị trường. Liên đới xã hội là một ưu tư thường trực của một chính quyền đứng đắn, nhưng liên đới xã hội phải được thực hiện ở khâu phân phối lợi tức quốc gia, qua thuế khóa, chứ không thể can thiệp trực tiếp vào sự điều hành hoạt động kinh doanh.
Chúng ta cũng cần một bối cảnh pháp lý, nghĩa là hiến pháp và pháp luật, ổn định để người dân có thể yên tâm xây dựng cuộc sống và lập ra những dự định cho tương lai mà không lo sợ một thay đổi luật chơi đột ngột làm hỏng dự án kinh doanh của mình.
Nhưng hiến pháp và luật pháp ổn vững không có nghĩa là chính quyền ổn vững. Sự thay đổi thường xuyên người cầm quyền trong một bối cảnh pháp lý ổn vững không hề cấm cản cảnh sát tiếp tục bảo vệ an ninh trật tự, không hề cấm cản các thẩm phán tiếp tục xử án và cũng không hề cấm cản một nhà máy tiếp tục hoạt động. Điều có thể tác hại cho sinh hoạt kinh tế là những cuộc cách mạng làm đảo lộn tất cả, là những thay đổi đột ngột luật pháp và định hướng quốc gia.
Đẩy xa lý luận hơn nữa, ta còn có thể nói những chính phủ dân chủ không có đa số áp đảo để thay đổi tùy tiện luật pháp và chính sách còn có thể là một đảm bảo cho sự ổn định bối cảnh pháp lý, và do đó có lợi cho phát triển. Một chính quyền áp đảo và nhiều quyền lực chỉ cần thiết để có thể quyết định mau chóng những thay đổi, và áp đặt một kế hoạch phát triển quốc gia. Nhưng kế hoạch quốc gia là điều chúng ta nên tránh. Kế hoạch quốc gia là một sản phẩm duy ý chí, tàn dư của thời đại thế giới chưa đủ sáng suốt và kinh nghiệm để nhận định rằng cần để cho xã hội, qua qui luật thị trường khách quan, quyết định những gì cần làm, làm tới mức nào và làm như thế nào. Kế hoạch kinh tế là một cản trở cho phát triển mà chúng ta phải loại bỏ, điều chúng ta cần là một định hướng cho quốc gia và những dự án cho từng vấn đề, đặc biệt là những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Dĩ nhiên trong một hoàn cảnh còn khó khăn và còn nhiều trở ngại cho phát triển, chúng ta cần một chính quyền có khả năng quyết định những chọn lựa cần thiết nhằm tháo gỡ những ách tắc do quá khứ để lại. Nhưng khả năng này một chính quyền dân chủ và nhẹ vẫn có thể có được nhờ thuyết phục để tạo ra đồng thuận và hậu thuẫn của quần chúng trên một số chọn lựa căn bản phải làm.
Tóm lại, để phát triển đất nước, và trước hết là phát triển kinh tế, chúng ta cần một thể chế dân chủ, một nhà nước pháp trị, một sinh hoạt kinh tế thị trường, một sự tôn trọng tuyệt đối ý kiến và sáng kiến cá nhân, một niềm tin mạnh mẽ vào con người. Thể chế đó sẽ làm nảy nở óc sáng tạo, tinh thần cầu tiến, tinh thần trách nhiệm. Nhưng chúng ta cũng cần một cố gắng văn hóa quan trọng để thượng tôn những giá trị của tiến bộ và đưa những giá trị đó vào tâm hồn và phản xạ của mọi người. Những giá trị đó là hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng, nhà nước pháp trị, hợp tác, lợi nhuận, liên đới và môi trường.
Xây dựng một xã hội dân chủ đa nguyên, phát huy các giá trị tiến bộ, chúng ta sẽ có phát triển, đặc biệt là phát triển kinh tế. Đó là chủ thuyết phát triển của chúng ta. Chúng ta quả quyết rằng một xã hội như thế và với những giá trị như thế dù muốn không phát triển cũng không được. Ngược lại, một xã hội không dân chủ, hoặc không có những giá trị tiến bộ thì dù muốn và cố gắng đến đâu cũng sẽ không có phát triển, hay chỉ có phát triển ở một mức độ thấp. Tài nguyên thiên nhiên và vốn đầu tư là những yếu tố thứ yếu.
Trong một chủ thuyết phát triển như thế, vai trò của nhà nước chủ yếu là gìn giữ hòa bình và trật tự an ninh, bảo đảm quốc phòng và công lý, tạo những quan hệ bang giao tốt với cộng đồng thế giới, hòa giải và trọng tài những tranh tụng của xã hội dân sự. Vai trò của nhà nước trong kinh tế sẽ được giới hạn trong ba phạm vi : thuế, chi tiêu công cộng và điều chỉnh khối lượng tiền tệ. Thuế để nhà nước có ngân sách làm nhiệm vụ của mình và bảo đảm an sinh và liên đới xã hội. Các chi tiêu công cộng để xây dựng, bảo trì và cải thiện cơ sở hạ tầng, thúc đẩy, kích thích một số ngành nghề. Việc điều chỉnh khối lượng tiền tệ lưu hành, chủ yếu qua ấn định một mức lãi suất căn bản và phát hành hoặc thu hồi công trái, có ảnh hưởng trực tiếp trên giá cả, đầu tư và tăng trưởng. Trong cả ba phạm vi đó, nhà nước cũng cần hành động với tất cả dè dặt để tránh đảo lộn sinh hoạt kinh tế. Ổn định là yếu tố cốt lõi của kinh doanh. Riêng việc quản lý tiền tệ, chúng ta phải tránh trường hợp chính quyền hành động theo những yêu cầu chính trị ngắn hạn, bằng cách giao phó cho một định chế ngân hàng trung ương xuất phát từ chính phủ nhưng không chịu sự chi phối tùy tiện của chính phủ.
Một lần nữa, nhu cầu phát triển buộc ta phải có một nhà nước hòa giải và trọng tài để cho xã hội dân sự lo việc phát triển thay vì một nhà nước chỉ huy và định đoạt thay cho xã hội dân sự. Vai trò hòa giải và trọng tài trong sinh hoạt kinh tế buộc nhà nước phải từ bỏ mọi chức năng kinh doanh. Các công ty quốc doanh không nên có, hay nếu có thì cần được coi là những bó buộc chẳng đặng đừng trong một thời gian nhất định. Trong chủ thuyết phát triển của chúng ta, nhà nước không chen lấn với xã hội dân sự, mà tập trung mọi cố gắng để làm tròn và làm tốt chức năng thực sự của một nhà nước.
Trích : Khai sáng kỷ nguyên thứ hai (Chương IV: Nền tảng tư tưởng cho kỷ nguyên dân chủ, Mục 5: Phát triển đất nước trên nền tảng dân chủ, kinh tế thị trường và sáng kiến cá nhân)
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên – THDCĐN
(Rally for Democracy and Pluralism – RDP)

Các ngôn ngữ khác
- Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (tiếng Trung Hoa : 第二纪元的启蒙书)
- Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (tiếng Anh : Open the Second Era)
Mua sách trên Amazon:
- Tại Mỹ (12 USD) : amazon.com
- Tại Pháp (11,69 €) : amazon.fr
- Tại Anh (7,94£) : amazon.co.uk
- Tại Đức (11,85 €) : amazon.de