Nếu
tả ngạn sông Seine và Đảo Thị Trấn (Ile de la Cité) là kho tàng di tích
lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của thành phố Paris cổ kính thì khu vực
hữu ngạn là niềm tự hào về cuộc sống vương giả và gương đấu tranh của
dân tộc Pháp tại thủ đô Paris huy hoàng. Khu vực hữu ngạn tuy có phát
triển sau khu tả ngạn nhưng những sinh hoạt chính của Paris đều tập
trung trên phần đất này. Tuy vậy, vết tích một thời đen tối của cuộc
Cách Mạng 1789 vẫn còn in dấu, hữu ngạn cũng là nơi sinh sống của giới
bình dân lao động, những phong trào chống đối hay ủng hộ chính quyền
phần lớn cũng đều phát nguồn từ nơi đây. Ngày nay những đập phá và thù
hận dưới thời Cách Mạng Pháp đã bị tẩy xóa, những hình ảnh đen tối thời
đó đã được thay thế bằng những tượng đài kỷ niệm chiến tích oai hùng của
Napoléon và công cuộc phục hồi di sản cũ của các chính quyền sau này
trên các đường phố lớn.
Khu vực hữu ngạn tuy có phát triển sau khu tả ngạn
nhưng những sinh hoạt chính của Paris đều tập trung trên phần đất này.
Viếng
thăm hữu ngạn sông Seine rất là lý thú và phải đi từ Đông sang Tây và
từ Trung tâm lên phía Bắc. Chúng ta sẽ lần lượt khám phá những nét độc
đáo, nếu không muốn nói là duy nhất trên thế giới, đã từng mê hoặc hay
đang mê hoặc người dân Paris và du khách quốc tế của từng khu vực, như
Quartier de Bercy, Quartier du Marais, Beaubourg và Les Halles, Quartier
des Tuileries, Quartier de l’Opéra, Quartier des Champs Élysées,
Quartier du Chaillot, và dừng chân ở Quartier du Montmartre để còn chút
gì để nhớ.
Quartier de Bercy (quận 12)
Quai
Bercy nằm trên hữu ngạn sông Seine, phía Đông thành phố Paris, đối diện
với Thư Viện Quốc Gia (Bibiothèque nationale Tolbiac – François
Mitterrand) bên kia bờ tả ngạn, quận 13. Có một thời khu này bị lãng
quên vì sự không quan trọng của nó, ngày nay Bercy được coi là một trong
vài buồng dưỡng khí hiếm hoi và là một trong vài khu hành chánh và dịch
vụ lớn của thành phố Paris, đối trọng với khu dịch vụ và thương mại lớn
nhất nước Pháp tại La Défense, phía Tây Paris. Diện tích của Bercy được
nới rộng qua Xa Lộ Vòng Đai (Périphérique) tới rừng Vincennes.
Cách
trung tâm Paris không xa về phía Đông là Château de Vincennes (Avenue
de Paris, 94300 Vincennes), được xây dựng từ thế kỷ 14. Tháp canh
(donjon) thật cao sừng sửng còn lại của lâu đài là một chứng tích kiến
trúc quân sự độc đáo của thời Trung Cổ. Trong thế kỷ 15 lâu đài này được
dùng làm nơi lưu ngụ của các hoàng tôn, vương tộc và quốc khách ngoại
quốc của triều đình Pháp. Vua Henri V Anh Quốc đã từ trần ở lầu hai của
lâu đài năm 1422. Đến thế kỷ 16, Château de Vincennes được dùng làm nơi
cất giấu tài sản của dòng họ Bourbon (các vua Henri và Louis) phòng khi
có biến cố. Ngôi giáo đường gothic trong lâu đài được Jules Mazarin, một
hồng y gốc Ý phụ tá hồng y giáo chủ Armand Jean du Plessis de Richelieu
(1585-1642) vào cuối thời vua Louis XIII (1610-1643) và dưới thời hoàng
hậu Anne d’Autriche (1601-1666), xây dựng năm 1550. Vào đầu thế kỷ 17,
nhà của trong lâu đài được Louis Le Vau xây dựng thêm để giới hoàng tôn,
quí tộc đến nghỉ ngơi và săn bắn. Khi toàn bộ triều đình dọn về
Versailles vào giữa thế kỷ 17, Château de Vincennes dùng làm nơi giam
giữ những người chống đối trong thế kỷ 18, vì nhà tù Bastille đã quá
tải, đông người và chật chội. Trong số những tù nhân nổi tiếng bị giam
giữ ở đây có Nicolas Fouquet (người phụ trách về tài chánh thời vua
Louis XIV), Denis Diderot (nhà văn và tư tưởng thế kỷ 18), nam tước Sade
(nhà văn), công tước Riqueti Marquis de Mirabeau (cố vấn vua Louis
XVI), v.v… Nhà tù này bị Cách Mạng Pháp đập phá năm 1789 và bị bỏ
hoang. Đầu thế kỷ 19, Napoléon I biến lâu đài này thành khu quân sự, với
sự thành lập một xưởng thuốc súng (Cartoucherie) và nhiều dãy nhà cho
quân đội. Năm 1840 lâu đài quân sự này được cải biến thành pháo đài quân
sự phòng thủ phía Đông Paris chống lại quân Phổ (Đức). Bị hư hại nặng
năm 1944 khi quân Pháp theo Leclerc tiến vào giải phóng Paris, vì quân
Đức tử thủ trong lâu đài, Château de Vincennes được tu sửa lại để trở
thành bảo tàng và văn khố quân sự. Những gì còn lại ngày nay chỉ là một
phần ba sự huy hoàng và tráng lệ ngày trước ; xưởng thuốc súng ngày nay
trở thành nơi trình diễn kịch của các đoàn kịch danh tiếng.
Cách trung tâm Paris không xa về phía Đông là Château de Vincennes được xây dựng từ thế kỷ 14.
Rừng
Vincennes (Bois de Vincennes), rộng 995 hecta, trong thời Trung Cổ
thuộc quyền sở hữu của tu viện Saint Maur và đến thế kỷ 16 là khu vực
săn bắn của hoàng gia. Sau khi triều đình dọn về Versailles, giữa thế kỷ
17, khu rừng này bị bỏ hoang và chỉ hồi sinh lại dưới thời Louis XV
(1715-1774), cây rừng đã tái tạo lại để trở thành nơi dạo mát và săn bắn
của hoàng gia. Năm 1796 một phần khu rừng được dùng làm nơi huấn luyện
quân sự và sân tập bắn. Vua Napoléon III giao cho nam tước Haussmann và
Adolphe Alphand cải biến lại khu rừng để trở thành nơi dạo mát của dân
Parisien với một hồ nước nhân tạo khổng lồ hình vòng tròn, Lac du
Daumesnil, để dạo thuyền và nhiều đảo nhỏ ở giữa hồ làm nơi cư trú của
chim thú rừng. Mỗi buổi sáng hàng ngàn người vào đây chạy bộ. Xuyên khu
rừng là những con đường nhỏ chạy ngoằn nghèo giữa 120.000 cây rừng đủ
loại và một thảo cầm viên lớn. Vào mùa thu rừng Vincennes rất đẹp, hai
bên đường lá vàng rơi rụng như confettis lót đường đón những bước chân
lạc loài giữa một thiên niên thơ mộng.
Một
phần của khu rừng được dành để làm thảo cầm viên, Zoo de Vincennes, năm
1931 nhân dịp Triễn Lãm Thuộc Địa (Exposition Coloniale). Một mõm đá
nhân tạo (Le Rocher), cao 65 thước, và một khoảng đất rộng lớn được dùng
làm nơi sinh trú của các loài dê núi, diều hâu, ác điểu chim săn lùng
chim bồ câu hoang. Các thú rừng được chăm sóc chu đáo với sự tái tạo lại
khung cảnh thiên nhiên của từng chủng loại. Trong khu này có Kaveri,
một con voi do cố thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi tặng cố tổng thống
Mitterrand, và Yen Yen, một con gấu Panda do Mao Trạch Đông tặng cố tổng
thống Pháp Georges Pompidou, là hai con thú được nhiều người đến xem
nhất. Ngoài ra còn có một số thú hiếm được mang về đây gầy giống lại để
tránh bị diệt chủng nơi sinh trú cũ như các loài gấu, hải cẩu, băng điểu
vùng Siberia.
Mỗi
năm, cứ độ đầu xuân cho đến cuối hè, Công Viên Hoa (Parc Floral de
Paris, Esplanade du Château, Route de la Pyramide, quận 12), rộng 31
hecta, cạnh lâu đài Vincennes trong khu rừng được mở ra cho trẻ em và
người lớn đến đây chiêm ngưỡng các loại hoa hiếm có trên thế giới trong
Vườn Bươm Bướm (Jardin des Papillons) xen kẽ giữa những tác phẩm điêu
khắc mỹ thuật. Trong công viên này có một ngôi chùa thuộc hệ phái mật
tông (tantrisme) của Tây Tạng, chùa Kagyu Dzong, thuộc Viện Phật Học
Quốc Tế (40, route Circulaire du Lac de Daumesnil, quận 12), rộng 108
mét vuông tượng trưng cho 108 hột mala, là nơi cư ngụ của đức Dalai
Lhama và các tăng sĩ mật tông khác mỗi khi đến Pháp. Ngoài ngôi chùa này
ra còn có một ngôi chùa nhỏ khác của Việt Nam, chùa Linh Sơn, do những
tu sĩ Phật Giáo thân chính quyền cộng sản trụ trì.
Phía
Bắc khu rừng Vincennes là Foire du Trône (Hội Chợ Ngai Vua). Hội chợ
này trước kia là khu giải trí dành cho những gia đình lao động sinh sống
quanh Bercy, các phường múa rối bình dân từ khắp nơi đến đây tổ chức
hội chợ và nhảy múa. Sau thất bại của Napoléon I, khu này trở thành nơi
đón mừng sự trở về của vua Louis XVIII và trở thành Hội Chợ lớn nhất
nước Pháp. Ngày nay, bắt đầu từ chủ nhật lễ lá đến cuối tháng 5, khu này
được mở ra để thanh thiếu niên và con cháu các gia đình bình dân quanh
Paris, và cũng là nơi hẹn hò của những đôi trai gái, đến đây giải trí và
thử thời vận với các trò chơi đen đỏ (jackpot), bắn cung, câu cá, ghế
đu bay (manège), v.v… giữa tiếng nhạc và tiếng loa ồn ào từ các gian
hàng vọng ra.
Không
xa hội chợ ồn ào này là Place de la Nation (Quảng Trường Quốc Gia).
Quảng trường này trước kia có tên là Place du Trône (Quảng Trường Ngai
Vua), có từ 1660 đến 1880. Vua Louis XIV (còn gọi là Vua Mặt Trời,
1643-1715), sau khi dẹp xong loạn sứ quân (La Fronde, do các hoàng tôn,
các chính trị gia và sĩ quan quân đội nổi dậy chống lại chính sách quân
chủ chuyên chính của dòng họ Bourbon từ 1648 đến 1653) tiến vào Paris từ
địa điểm này, để ghi nhớ thành tích của mình nhà vua đặt tên là Place
du Trône. Dưới thời Cách Mạng Pháp, quảng trường này bị đổi thành Place
du Trône Renversé (Ngai vàng bị lật đổ), những người cách mạng đã đặt
máy chém Guillotine tại đây để chặt đầu hơn 1.300 người bị kết tội “phản
cách mạng”, đa số là gia đình các hoàng tộc sinh sống tại khu Marais,
trong vòng 43 ngày. Cũng nên biết thêm là trong giai đoạn Khủng Bố (La
Terreur, 1793-1794), dưới sự lãnh đạo của Robespierre, các tòa án cách
mạng đã tuyên án tử hình gần 40.000 người, tất cả những nạn nhân đều bị
chặt đầu bằng máy chém Guillotine hay bị xử bắn trên khắp nước Pháp.
Cũng tại quảng trường này, những sĩ quan cách mạng đã dựng tại đây hai
cột cờ và những cột trụ lớn để ghi nhớ chiến thắng của mình, vẫn còn tồn
tại cho tới ngày nay. Dưới thời Đệ nhị đế quốc, năm 1880, Napoléon III
đổi tên quảng trường này thành Place de la Nation (Quảng trường Quốc
Gia) để ghi nhớ những sai lầm của những người lãnh đạo nước Pháp trong
giai đoạn đen tối đã qua và nhắc nhở mọi người rằng chỉ có quốc gia là
trên hết.
Cạnh
Nation là Nghĩa Trang Picpus (Cimetière de Picpus, 35 rue de Picpus).
Đây là vết tích rùng rợn còn lại của thời Cách Mạng Pháp, nơi tra tấn và
chôn vùi thi thể những nạn nhân. Trong nghĩa trang còn lưu lại một cột
gỗ dùng để treo những nạn nhân sau khi bị tra tấn. Tưởng cũng nên nhắc
lại chỉ riêng một ngày, ngày 17/6/1794, tên đồ tể Sanson đã chặt bằng
máy chém 54 đầu người trong vòng 24 phút. Hơn 1.300 xác không đầu tại
Place du Trône Renversé được đem vào đây vùi trong những hố chôn tập
thể. Thời gian sau đó, Picpus trở thành nghĩa trang của con cháu những
nạn nhân bị chặt đầu. Nghĩa trang này ngày nay được cải biến lại để xóa
tan tính chất dã man của thời cách mạng, những lối đi trải đá giữa các
vòm cây và thảm cỏ làm tăng nét hiền hòa và yên tỉnh của vườn vĩnh biệt.
Tuy không lớn bằng các nghĩa trang Lachaise hay Montparnasse nhưng
nghĩa trang này là nơi chôn cất nhiều nhân vật tên tuổi như Marie-Joseph
Marquis de La Fayette (1757-1834), người đã giúp di dân Mỹ chống lại đế
quốc Anh giành độc lập.
Từ
hướng Đông ngoại thành muốn vào Paris phải vô bằng hai cửa : Porte de
Bercy và Porte Dorée. Gọi là Porte (cửa) vì Paris trước kia, trong suốt
thời Trung Cổ cho tới giữa thế kỷ 19, là một pháo đài phòng thủ kiên cố,
dân chúng hay quân địch chỉ có thể vào bằng những cửa đã thiết kế sẵn.
Paris có tất cả 36 cửa vào. Những cửa này ngày nay vẫn giữ nguyên tên
nhưng đã mất tính chất phòng thủ nghiêm ngặt của ngày xưa. Porte Dorée,
theo kinh Cựu Ước của người Do Thái là nơi Đấng Cứu Thế sẽ hiện ra vào
ngày tận thế để phán xét người có công và kẻ có tội. Trước kia cửa này
có tên là Porte de Picpus, thật ra phải đọc là “Picque Puces”, nghĩa là
“bắt rận”, để ám chỉ dân cư lao động tại đây ăn dơ ở bẩn do đó phải ngăn
chặn họ tràn vào thành phố. Với thời gian quần chúng bình dân đọc trại
thành Picpus và tên này được giữ nguyên cho tới ngày nay. Sau Cách Mạng
1789, Porte de Picpus là nơi hành hình gia đình những hoàng tộc dưới sự
cổ võ của quần chúng bình dân. Đến thời vua Louis XVIII (đầu thế kỷ 19),
Porte de Picpus đổi thành Porte Dorée (Hoàng Môn), ý muốn nói là đây
nơi phán xét những người đã sát hại những gia đình hoàng tộc trong ngày
tận thế.
Trở
về hữu ngạn phía Đông sông Seine. Quai de Bercy là một giang cảng có từ
thời La Mã, ngày nay còn lại vài tụ điểm dùng làm vựa tồn trữ cát đá
xây dựng. Trước kia cảng này dùng làm nơi vận chuyển hàng hóa và vật
dụng xây cất cho thành phố Paris và là khu bến tàu với đầy đủ sinh hoạt
xô bồ của nó ; những tay anh chị từ khắp nơi đến đây tranh quyền bá chủ.
Sau Cách Mạng Pháp 1789, những thành phần lao động tham gia cách mạng
cải tổ lại khu này cho có an ninh hơn và biến thành nơi nhập cảng và
phân phối rượu. Lúc đầu rượu lậu được chở bằng xà lang và xe ngựa từ
khắp nơi đến đây cất giấu trước khi phân phối cho các quán rượu bình dân
dọc bến tàu, đến cuối thế kỷ 19 việc buôn bán rượu trở nên hợp pháp và
việc chuyên chở rượu bằng đường sắt và đường sông về đây trở nên ồ ạt.
Năm 1860 Paris trở thành thủ đô rượu nho ngon nhất Châu Âu, đặc biệt là
các loại rượu Bourgogne và Bordeaux. Việc buôn bán rượu càng sầm uất,
Quai de Bercy càng trở thành khu lao động nghèo khó, nơi tụ cư của những
gia đình phu bốc vác với cảnh say rượu và ẩu đả xảy ra thường xuyên vào
mỗi đêm tối. Cuối nửa cuối thể kỷ 19, kiến trúc sư Eugène Viollet Le
Duc được giao nhiệm vụ canh tân lại thành phố Paris, trong đó có khu
Bercy ; ông cải biến những kho hàng cổ lỗ thành những văn phòng thương
mại buôn bán rượu sầm uất với những đường nét mỹ thuật phù hợp với cảnh
quang Paris, như các hãng rượu Saint Emilion và Lheureux vẫn còn tồn tại
cho tới ngày nay. Tên những con đường chung quanh (Pommard, Beaune,
Aloxe-Corton…) gợi lại những hiệu rượu danh tiếng của con cháu các vị
thần Dionisos và Bacchus.
Ngày nay công việc bốc vác không còn nữa, nhà cửa gia đình các phu bến
tàu và dân lao động đã bị đập phá để xây dựng lại thành những văn phòng
với những kiến trúc tân kỳ và khu dân cư đông đúc ; các kho chứa rượu
được cải biến lại thành Jardin de la Mémoire (Vườn Tưởng Nhớ) để nhớ lại
nghề buôn bán rượu ngày xưa, với những quán rượu, nhà hàng và khu triển
lãm quốc tế về rượu. Trong Jardin de la Mémoire (dài 800 mét, nằm song
song với sông Seine), những luống hoa tulip được trồng quanh bễ nước do
nhà điêu khắc Singer tạc, với những bức tượng Canyoneaustrates, dọc các
lối đi bằng đá hoa cương chà bóng, dưới những hàng cây tùng và bên cạnh
những thảm cỏ được cát tỉa cẩn thận. Xa hơn về phía Bắc là những di tích
còn lại của vườn nho.
Vườn
Nho (Vignobles de Bercy), nay là Công Viên Bercy (Parc de Bercy), rộng
13,5 hecta, nằm giữa hai cửa ra vào phía Đông Paris, Porte de Bercy và
Porte Dorée, với những lối đi và ghế ngồi thơ mộng, dưới những lùm cây
bên cạnh những luống hoa tươi đẹp, dành cho những khách bộ hành lỡ bước
hay những người muốn cùng nhau trò chuyện cho hết ngày tháng. Bên cạnh
công viên này là nhà thờ Notre Dame de Bercy (Place Lachambeaudie), được
xây dựng giữa thế kỷ 19 để ban phép lành cho những đoàn xe lửa chạy
ngang trên cầu cạnh đó và cho dân chúng lao động chung quanh đến dự lễ.
Dưới
chân cầu xe lửa bên cạnh ngôi nhà thờ này là một bậc đá đánh dấu mực
nước sông Seine đã dâng lên một thước vào năm 1910. Những con đường nhỏ
trong khu này (rue des Fonds Verts, Wattignies, Brèche aux Loups,
Meuniers) trước kia là những con đường làng nằm giữa rừng rậm dành cho
nông dân từ ngoại ô vào Paris buôn bán. Nhà cửa trên những con đường này
đã thay đổi nhưng bên trong mỗi căn nhà là một lịch sử riêng biệt. Tại
căn nhà số 67 rue des Meuniers còn lưu lại dấu vết một cột mốc và nơi để
nông dân cạy sình đất dính trên guốc gỗ để khỏi làm dơ các con lộ lát
đá dẫn vào thành phố.
Phía
đầu Công Viên Bercy là tòa nhà thể thao và thể dục đa năng, Palais
Omnisports de Paris Bercy (POPB, 8 boulevard de Bercy). Khu nhà này có
hình thù kỳ quặc, nhìn từ xa nó giống một ụ đất được bao phủ bởi một lớp
cỏ nhung xanh ; bên trên và ở chính giữa là một khung sắt màu xanh
dương với những cửa kiếng để rọi sáng căn nhà. Nét độc đáo của thảm cỏ
bọc quanh khu nhà là độ nghiêng 45° của nó, rất khó cắt tỉa. Diện tích
nội thất tòa nhà này rộng như một sân vận động đa năng, có thể chứa tới
15.000 người, dùng làm nơi thi đấu thể thao quốc tế và trình diễn văn
nghệ của những nghệ sĩ tên tuổi từ khắp nơi trên thế giới. Tại đây các
cuộc đua xe đạp trong nhà kín, đua xe moto việt dã, thi kỹ mã, hockey,
biểu diễn trên băng tuyết, thể dục dụng cụ, thể dục thẩm mỹ, cử tạ được
truyền hình đi khắp thế giới. Các đoàn nhạc rock, ca múa, nhạc kịch,
opéra và xiệc lớn trên thế giới cũng đều đến đây trình diễn cho dân
chúng Paris xem.
Cạnh
tòa nhà Omnisports de Bercy này là Bộ Kinh tế, Tài Chánh và Kỹ Nghệ
(Ministère de l’Economie, des Finances et de l’Industrie, 139 rue de
Bercy). Cơ quan này, trước kia nằm cạnh Viện Bảo Tàng Louvre nay được
dời ra nơi đây năm 1989, là hồ bao của nước Pháp. Tòa nhà này gồm hai
công trình kiến trúc độc đáo : một hướng về phía sông Seine và một hướng
về phía Nhà Ga Lyon. Tòa nhà thứ nhất hướng về phía sông Seine, do hai
kiến trúc sư Paul Chemetov và Borja Huidabro vẽ kiểu, có hình thù kỳ
quặc vừa to lớn vừa tân kỳ, được xây dựng ngang qua một con đường lớn,
dài 900 mét, bao bọc bởi những tấm kiếng lớn màu đen nổi bật trên màu
trắng của tường, nhìn từ xa giống một cầu thang chuyển người lên phi cơ
mà dân chúng đi ngang gọi là con tàu (le paquebot) nhưng đột ngột dừng
lại ngay đầu bờ sông ở trên cao. Tòa nhà thứ hai hướng về phía Nhà Ga
Lyon, do hai kiến trúc sư Louis Arretche và Roman Karasinsky vẽ kiểu,
được bao bọc bằng những tấm kiếng đen với những góc cạnh lồi lõm và gãy
khúc để tránh có cảm giác đồng bộ. Cả hai tòa nhà này trị giá 3,7 tỷ
Francs cũ, trong đó 43 triệu là tiền mua các tác phẩm điêu khắc và thảm
trải, là nơi làm việc của hơn 6.000 công chức. Một vài con số : 225.000
mét khối gỗ, 1.300 cừ bê-tông sâu 30 mét, 45.000 mét vuông diện tích bọc
kiếng, 5.000 tấn sườn sắt… Hình thù kỳ dị của cơ quan này báo hiệu
những điềm chẳng lành cho những ai làm chủ nó, từ khi đi vào sử dụng đến
nay không một vị bộ trưởng nào ngồi lâu quá hai năm trong tòa nhà này,
họ ra đi không phải vì bất tài mà vì những lý do chẳng liên quan gì đến
khả năng của họ, đa số đều phải từ chức giữa nhiệm kỳ, một người tự tử.
Đoạn
đường xe lửa trên không, nối liền Rừng Vincennes với Quảng Trường
Bastille có từ giữa thế kỷ 19 dưới tên gọi Viaduc des Arts (Cầu Treo
Nghệ Thuật) nay trở thành khu vườn treo giữa các khu nhà cách mặt đất 10
mét, với đủ các loại cây cỏ dài 2.300 mét, được chống bởi 60 vòm cầu
bằng gạch đỏ và đá vôi trắng dọc theo đại lộ Daumesnil. Dưới các vòm cầu
là các gian hàng triển lãm và buôn bán đồ nữ trang, gỗ chạm, điêu khắc,
dụng cụ âm nhạc, cửa hàng điện toán và nhà hàng. Khu vườn này cũng là
nơi hò hẹn của những người yêu nhau cuối ngày muốn đi trên “đường rày
tình ái” giữa tiếng chim ca.
Bảo
tàng văn hóa nghệ thuật Châu Phi và vùng biển Nam Bán Cầu (Musée des
Arts d’Afrique et d’Océanie, 293 avenue Daumesnil), lúc đầu có tên là
Palais de la France d’Outre-Mer (Dinh Pháp Quốc Hải Ngoại), do kiến trúc
sư Albert Laprade và Léon Jaussely vẽ kiểu và xây dựng để tham gia cuộc
triển lãm thế giới năm 1931 để trưng bày thành tích chinh phục thuộc
địa của Pháp. Sau cuộc triển lãm, cơ sở này biến thành bảo tàng Musée de
la France d’Outre-Mer. Giữa thập niên 1960, nhà văn kiêm bộ trưởng
André Malraux đổi tên thành Musée des Arts d’Afrique et d’Océanie, ngày
nay tuy ít được biết đến vì nằm quá xa khu vực trung tâm, nhưng không vì
vậy mà thiếu báu vật. Bảo tàng này trưng bày những bộ sưu tập về nghệ
thuật của người nguyên thủy và những bộ lạc ở miền Tây Châu Phi, Trung
Phi và Bắc Phi, ở vùng biển phía Nam Bán Cầu và Châu Úc. Ngoài ra còn có
những mặt nạ hình đầu dã thú của người Mali, ngà voi chạm trổ tinh xảo
của Bénin, nữ trang của người Marốc, tranh vẽ trên vỏ cây của thổ dân
Châu Úc, những mặt nạ và tượng bằng gỗ và đồng của người Tây Phi và
Trung Phi. Đó là chưa kể những bễ nuôi cá nhiệt đới, những vũng sình
nhân tạo nuôi chứa cá sấu và rùa ở từng dưới hầm gây nhiều cảm giác mạnh
cho người xem.
Nhà
Ga Lyon (Gare de Lyon, Boulevard Diderot) được xây dựng năm 1852 để đưa
đón khách đồng thời cũng để chở rượu vào vựa Bercy, với một tháp canh
(beffroi) cao 60 mét để canh chừng đoàn tàu và trộm cướp đến từ khu lao
động Bercy. Năm 1900 nhà ga được tân trang lại theo trường phái baroque
để đón nhận khách tham dự Cuộc Triển Lãm Thế Giới (Exposition
Universelle) ; tháp canh được gắn bốn đồng hồ lớn (mỗi kim chỉ giờ dài 3
mét) ở bốn hướng để báo hiệu giờ và còn tồn tại cho tới ngày nay. Dọc
các vách tường hành lang của nhà ga là những bức tranh vẽ lại các khung
cảnh mà đoàn tàu đi qua rất tinh vi và mỹ thuật. Nhiệm vụ của Nhà Ga
Lyon là đón đưa khách. Mỗi ngày 40 chuyến xe lửa tốc độ cao (TGV-Train à
Grande Vitesse) màu cam với tốc độ trung bình 300 cây số/giờ đưa đón
khách từ Paris đi các tỉnh miền Đông Nam nước Pháp, Ý và Thụy Sĩ hay
ngược lại, đó là chưa kể hàng trăm chuyến xe lửa mỗi ngày ghé trạm Gare
de Lyon để đưa đón khách ra vào nội thành và vùng ngoại ô. Thời gian
trung bình từ Paris đi Lyon là 2 giờ (550 km), Genève : 3 giờ rưỡi (800
km), Lausanne : 4 giờ (950 km), Zurich : 6 giờ, Marseille : 2 giờ 35
(700 km), Milano : 6 giờ 30, Roma : 13 giờ, Barcelona : 9 giờ.
Bên
trong nhà ga là nhà hàng Le Train Bleu nổi tiếng ở lầu một. Nhà hàng
này được khánh thành cùng lúc với nhà ga năm 1900, năm 1972 được xếp vào
hàng di tích lịch sử. Nội thất nhà hàng rất sang trọng gồm một đại sảnh
và nhiều tiểu sảnh, được trang trí bằng 45 bức tranh do các họa sĩ tên
tưổi thời Hoàng Kim (Belle Epoque) vẽ từ đầu thế kỷ những thành phố mà
đoàn tàu PLM (Paris-Lyon-Marseille) đã đi qua. Nhiều nhân vật tên tuổi
đã từng vào đây ăn uống và nghỉ ngơi trước khi lên tầu đi xuống vùng
Đông Nam như Coco Chanel, Jean Cocteau, Réjane, Sarah Bernhardt, Edmond
Rostand, Colette, Dalí, Jean Gabin. Nhà đạo diễn Luc Besson cũng đã mượn
khung cảnh nhà hàng này để dựng phim Nikita.
Ga
Lyon còn là nơi quyến luyến trước giờ chia tay. Đây là một nhà ga thơ
mộng và lãng mạn. Đến Paris mà không chứng kiến cảnh giả từ của những
người yêu nhau trên những sân ga giống như ngủ trên giường không có trải
ra (drap), nghĩa là không được vui sướng trọn vẹn. Có chứng kiến cảnh
chia tay, hay chính mình đưa tiễn người yêu mới cảm thấy những giây phút
này thật là huyền diệu.
Ga Lyon đã đi vào văn học và âm nhạc Việt Nam với bài thơ Tiễn Em
của Cung Trầm Tưởng do Phạm Duy phổ nhạc. Không một chàng trai Việt Nam
nào không muốn được tiễn người yêu đi xa và cũng không một phụ nữ Việt
Nam nào không muốn là người “em xóm học” (Saint Germain des Prés) để
được người yêu đưa tiễn :
Lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế,
Trời mùa đông Paris suốt đời làm chia ly.
Tiễn em về xứ mẹ, anh nói bằng tiếng hôn.
Không còn gì lâu hơn một trăm ngày xa cách !
Tuyết rơi mỏng manh buồn, Ga Lyon đèn vàng ;
Cầm tay em muốn khóc, nói chi cũng muộn màng…
Hỡi em người xóm học, sương thấm hè phố đêm
Trên con đường anh đi, lệ em buồn vương vấn…
Tuyết rơi phủ con tầu, trong toa em lạnh đầy
Làm sao em không rét cho ấm mộng đêm nay ?
Tiễn em, thơ Cung Trầm Tưởng (1958), nhạc Phạm Duy, tiếng hát Sĩ Phú
Nhà
hát Opéra Bastille (102, rue de Lyon) là một kiến trúc tân kỳ hình
tròn, nhìn từ xa như chiếc bánh sinh nhật khổng lồ, được bao bọc bởi
những tấm kiếng màu xanh dương nổi bật giữa các vách tường hình thang
cấp tráng men màu trắng. Công trình xây dựng độc đáo nhất Châu Âu này,
do kiến trúc sư người Canada gốc Uruguay Carlos Ott vẽ kiểu, đã bị chỉ
trích rất nhiều vì quá tốn kém (2,8 tỷ francs và 580 triệu francs tiền
điều hành mỗi năm rc năm 2000) và khác với những nhà hát cổ điển có từ
thế kỷ 19 như nhà nhà hát Opéra Garnier ớ Paris, quận 9. Được xây dựng
năm 1985 trên nền một nhà ga cũ và khánh thành ngày 14/7/1989, đúng hai
trăm năm sau ngày phá ngục Bastille ngày 14/7/1789, nhưng phải chờ đến
16/3/1990 mới tổ chức buổi trình diễn đầu tiên. Nhà hát tân kỳ và vĩ đại
này có một thính phòng lớn và rất nhiều thính phòng nhỏ. Thính phòng
lớn, có thể chứa tới 2.700 người, được trang trí rất tân kỳ với những
ghế nệm đen, giữa những vách tường bằng đá hoa cương dưới trần nhà bằng
kiếng. Hệ thống âm thanh của nhà hát này độc đáo nhất thế giới, một
tiếng động nhỏ ở bất cư góc sân khấu nào đều được nghe rõ, đó là chưa kể
năm sàn sân khấu di động khổng lồ, mỗi sàn có thể chứa cùng một lúc 500
người và xoay chuyển nhanh chóng để người xem không phải chờ đợi giữa
hai màn trình diễn. Mỗi năm nhà hát này có thể tổ chức 260 buổi trình
diễn cho từ 700.000 đến 800.000 người xem.
Chung
quanh nhà hát Opéra Bastille hiện nay là những quán cà phê, rạp chiếu
bóng, những cửa hàng và nhà hàng sang trọng trên những đại lộ rộng lớn,
khác với khung cảnh sinh hoạt ngày xưa của một nhà ga và một trại lính
với những buổi hợp chợ bình dần, ồn ào và mất trật tự. Khu chợ trời buôn
bán thức ăn, trái cây và áo quần vẫn còn duy trì.
Quảng
trường Bastille (Place de la Bastille), nằm giữa khu Bercy và Le
Marais, được xây dựng năm 1803 trên nền nhà tù Bastille cũ nhưng chỉ
hoàn tất 60 năm sau với sự xây dựng đại lộ Henri IV, đồn lính Célestins
và nhà ga Bastille. Đoạn đường từ số 5 đến số 49 Boulevard Henri IV là
những dấu vết còn lại của một vài tháp canh và thành quách nhà tù
Bastille, nơi giam giữ những người chống lại triều đình. Nhân cuộc khủng
hoảng kinh tế xảy ra trong tháng 7/1789, dân chúng nghèo khó từ khắp
nơi, nhất là từ Bercy, ùn ùn kéo nhau đến ngục Bastille phản đối nhà vua
và được sự tiếp tay của vệ binh ; ngày 14/7/1789 cửa ngục Bastille bị
phá và dân chúng cùng vệ binh vào đốt nhà tù. Trong thực tế nhà tù
Bastille lúc đó chỉ giam 7 tù nhân, được trả tự do ngay trong ngày,
nhưng phe chống và phá ngục bị thiệt hại nặng : 115 về phía bảo vệ nhà
giam và 171 về phía tấn công. Chung quanh quảng trường Bastille ngày nay
được lát đá hoa cương để lưu lại vết tích ngày xưa.
Ngày 14/7/1789 cửa ngục Bastille bị phá và dân chúng cùng vệ binh vào đốt nhà tù.
Ở
giữa quảng trường là một tượng đài cao 3 mét với bốn đầu sư tử khổng lồ
bảo vệ một cột trụ bằng thau xanh lợt, cao 51,5 mét, gọi là Colonne de
Juillet, để tưởng nhớ những nạn nhân bị giết trong cuộc cách mạng tháng
7/1830 tái lập hoàng triều. Trên đỉnh cột là tượng Nữ Thần Tự Do có cánh
bằng đồng mạ vàng, đứng một chân trên một khối tròn. Quan sát kỹ, mỗi
điểm điêu khắc trên cột từ đường nét đến hình tượng là những tác phẩm
nghệ thuật chạm khắc tinh vi, người ta chỉ biết trầm trồ khen chứ không
tìm được ngôn từ nào để diễn tả. Có một điều ít ai biết là dưới chân cột
có một nghĩa địa nhỏ, nơi chôn cất 504 thi hài những người chết vì nền
Cộng Hòa Pháp và những chết trong cuộc cách mạng 1848. Giữa những thi
hài này còn có thêm những xác ướp Ai Cập do Napoléon I mang về nhưng
những nhà bác học Pháp thời đó chưa đủ khả năng bảo quản nên đã sình
thối và được chôn hết vào nghĩa địa này.
Như
muốn giữ truyền thống cách mạng ngày xưa, quảng trường Bastille ngày
nay là điểm xuất phát hay điểm khởi hành của bất cứ cuộc xuống đường nào
của giới thợ thuyền và sinh viên học sinh, chống đối hay ủng hộ chính
quyền, tại Paris.
Quartier du Marais (quận 3 và quận 4)
Le
Marais, như tên gọi của nó, trước kia là một khu vực sình lầy, ẩm thấp,
rất khó sinh sống. Marais có nghĩa là vũng lầy. Dân số Paris tăng theo
thời gian, nhu cầu mở rộng không gian sinh tồn được mở rộng sang bờ hữu
ngạn. Nếu trước kia khu Bercy dành riêng cho giới thợ thuyền và dân cư
lao động thì khu Marais thuộc những gia đình quí tộc và giàu có. Marais
lúc đó còn là một khu vực xây cất tự do, giới quyền quí từ khắp nơi đến
đây mua đất rồi thuê nhân công ở khu lao động Bercy vào lấp các trũng
nước, vũng lầy để xây nhà dựng cửa. Nhiều công trình xây dựng quan trọng
được xây dựng quanh triều đình Louvre trên bờ hữu ngạn, những kiến trúc
sư tên tuổi được mời đến đây vẽ kiểu và xây dựng những khu nhà sang
trọng mà tên tuổi của họ tồn tại cho tới ngày nay.
Những
dinh thự còn lại trong khu Marais ngày nay được coi là những tác phẩm
kiến trúc tiêu biểu của thế kỷ 17, còn gọi là Đại Thế Kỷ (Le Grand
Siècle), dành riêng cho giới quí tộc phục vụ triều đình cho đến giữa thế
kỷ 17, vì sau đó hoàng cung dọn về Versailles năm 1668 theo “Vua Mặt
Trời” Louis XIV. Phần lớn những kiến trúc tiêu biểu dưới thời Louis XIV
đều được tu bổ lại để trở thành bảo tàng viện, gọi chung là hôtel, trưng
bày những di tích lịch sử của thành phố Paris và nước Pháp. Cũng nên
biết những ngôi nhà sang trọng trong khu Marais có nhiều tầng và nhiều
phòng nên được gọi cung là “hostel”, tức “nhà khách”, sau này viết thành
“hôtel” nhưng không phải là “khách sạn” theo nghĩa thông dụng ngày nay.
Chủ nhân những căn nhà lớn rộng này thời đó thường tổ chức những buổi
tiếp tân linh đình và mời khách ngụ lại trong nhà một thời gian.
Dưới
thời Cách Mạng Pháp, những gia đình quí tộc và giới đại trưởng đều bị
các tòa án cách mạng xử trảm, toàn bộ tài sản đều bị tịch thu và nhà cửa
cho dân chúng lao động quanh khu vực vào ở và biến cải thành những cơ
sở sản xuất tiểu thủ công nhiệp và cửa hàng buôn bán. Do thù hận và
thiếu văn hóa, giới bình dân vào đây đã phá hủy hay làm tiêu hao nhiều
công trình kiến trúc quan trọng cho những nhu cầu thường nhật, những gì
còn lại ngày nay chỉ tương đương với 20% tổng số kiến trúc thời trước,
tuy vậy nếu chịu khó quan sát từng căn nhà cổ người ta sẽ tìm lại nét
quí phái hay giàu sang ẩn chìm trong các vách tường và trên các cổng ra
vào.
Đến
thế kỷ 19, Le Marais trở thành trung tâm sản xuất hàng kỹ nghệ và chỉ
bị bỏ rơi vào năm 1962 khi André Malraux, văn hào và là bộ trưởng của
tổng thống de Gaulle, cho tu bổ lại các di tích trong khu vực. Từ đó trở
đi, nhiều dinh thự hư hao đã được tái tạo lại để trở thành những cửa
hàng buôn bán áo quần thời trang và ca nhạc kịch sang trọng. Nhu cầu vào
đây thành lập cơ sở buôn bán làm tăng giá nhà đất, những cơ xưởng sản
xuất tiểu thủ công nghiệp và kỹ nghệ nhỏ lần lượt đóng cửa nhường chỗ
cho giới đại tư bản vào đây khai thác. Người Do Thái gốc Bắc Phi (Pieds
Noirs) và người Hoa cũng vào đây mua lại những khu nhà lụp xụp để sửa
sang lại thành những xưởng may áo quần thời trang và các cửa tiệm buôn
bán hàng xuất cảng liên quan đến thời trang và nữ trang, từ đó không khí
sinh hoạt trong khu này trở nên nhộn nhịp. Ngày nay chỉ còn lại một vài
hàng quán buôn bán tạp hóa và bistrot (quán cà phê góc đường) thuộc
những gia đình bình dân.
Từ
phía Đông tiến vào trung tâm, chúng ta sẽ lần lượt viếng thăm những địa
danh tuy im lìm trước thời gian nhưng chất chứa một quá khứ đầy sôi
động : nhà hát Opéra de Bastille, Place de la Bastille, Colonne de
Juillet, căn nhà của Victor Hugo, Place des Vosges, Square du Temple ;
những dinh thự được coi là những tác phẩm kiến trúc tiêu biểu của khu
Marais như Hôtel de Ville ; những ngôi nhà thời Louis XIV được biến
thành bùảo tàng viện như Hôtel de Lamoignon, Hôtel de Rohan, Hôtel de
Soubise, Carnavalet, Cognacq Jay, Hôtel de Sully, Hôtel de Coulanges,
Hôtel Libéral Bruand, Hôtel de Sens, Hôtel Guénégaud ; những nhà thờ cổ
kính như Saint Paul-Saint Louis, Sant Gervais-Saint Protais, Notre Dame
des Blancs Manteaux và Cloitre des Billettes ; những con đường được coi
là di tích lịch sử như Rue des Francs Bourgeois, Rue des Rosiers…
Là
một người yêu mến Paris, trong những năm từ 1832 đến 1848, văn hào
Victor Hugo đã dọn về cư ngụ tại số 6 Place des Vosges (quận 4), trên
lầu 2. Chính trong căn nhà này Victor Hugo đã tìm cảm hứng sáng tác
nhiều tác phẩm nổi tiếng, về thơ : Chants du crépuscule (1835), Les voix
intérieures (1837), Les rayons et les ombres (1840) ; về kịch : Lutèce
Borgia (1833), Ruy Blas (1838) ; về văn học : một phần tác phẩm nổi
tiếng Les Misérables đã được hoàn chỉnh trong căn nhà này. Cũng trong
thời gian lưu ngụ tại Paris, Victor Hugo đã tham gia sinh hoạt chính
trị, lúc đầu theo trường phái pháp gia (légitimiste), sau theo khuynh
hướng tự do (libéral) và cuối cùng là cộng hòa và dân chủ (républicain
et démocrate). Ông chỉ rời Paris sau vụ lật đổ Napoléon III không thành
và phải sống lưu vong. Căn nhà của Victor Hugo trước kia thuộc nhà quí
tộc Rohan Guéménée bị truất hữu trong thời cách mạng, vì sự sang trọng
và rộng lớn của nó, nay trở thành bảo tàng trưng bày cuộc đời và tác
phẩm của Victor Hugo. Từ lầu hai căn nhà này nhìn xuống là Place des
Vosges xinh đẹp.
Place
des Vosges (quận 3) là quảng trường xưa nhất Paris và, nếu nói không
ngoa, đẹp nhất thế giới. Quảng trường này trước kia có tên Place Royale,
dành riêng cho vua chúa và giới quí tộc đến đây đua tranh tài nghệ.
Ngày 30/6/1559, vua Henri II thách đấu kiếm với tất cả ngự lâm quân
trong triều tại đây nhưng bị viên thủ lãnh ngự lâm quân Montgomery đâm
thủng mắt ; viên ngự y Ambroise Paré nổi tiếng thời đó ra lệnh chặt đầu
và móc mắt tất cả những tù nhân bị kết án tử hình để ghép vào mắt vua
nhưng không thành, Henri II qua đời 10 ngày sau đó. Để mừng đám cưới của
mình với hoàng hậu Anne d’Autriche (người Anh), vua Louis XIII cho xây
dựng lại khu đất thành một quảng trường rộng lớn, hoàn tất năm 1612, để
làm nơi tổ chức lễ hội và thi đấu tài nghệ giữa các gia đình hoàng tộc.
Sau đám cưới mảnh đất này tiếp tục là nơi thi đấu từ giữa thế kỷ 16 đến
nửa cuối thế kỷ 17 thì bị bỏ rơi, một số gia đình hoàng thân sau đó theo
vua Louis XIV về điện Versailles cư ngụ năm 1668.
Nhà
cửa chung quanh quảng trường được xây cất bằng gạch và đá với những mái
nhà bằng ngói bằng đá đen (ardoise) từ Angers đem tới, tầng trệt là
những hàng hiên dài và rộng lớn, tất cả chung quanh một ô vuông, mỗi
cạnh 108 mét gồm 9 căn nhà, tổng cộng là 36 căn. Bốn khu nhà này chỉ
dành riêng cho gia đình hoàng tộc cư ngụ ; căn nhà phía Bắc dành riêng
cho vua và căn nhà phía Nam dành cho hoàng hậu cao hơn những nhà khác.
Hồng y giáo chủ Richelieu cư ngụ tại đây năm 1615 ; bà Marquise (nam
tước) de Sévigné được sinh tại đây ngày 5/2/1626. Sau 1668, khu này trở
thành nơi cư ngụ của những gia đình quí tộc trung bình hay sĩ quan cao
cấp của triều đình.
Trong
thời Cách Mạng Pháp, khu này bị tịch thu, nhiều căn nhà bị cướp phá hay
bị đốt. Place Royale bị đổi tên thành Place de l’Indivisibilité (không
chia được), đến năm 1800 đổi thành Place des Vosges, để ghi nhớ Vosges
là tỉnh đầu tiên nộp thuế dưới thời Bonaparte (tức Napoléon I sau này),
và còn tồn tại cho tới ngày nay. Thời gian sau cách mạng, chính quyền
Paris bán những căn nhà này cho những người có tiền mua lại với giá khá
đắt. Place des Vosges ngày nay là một công viên hình vuông với bốn hàng
cây ở bốn góc và bốn thảm cỏ cắt tỉa cẩn thận bao bọc một vòng tròn nhỏ
với những lối đi được trải đá và cát ; tất cả bao quanh một hàng cây
được trồng theo hình tròn mà trung tâm điểm là bản sao bức tượng vua
Louis XIII cưỡi ngựa (bức tượng nguyên thủy bằng đồng đã bị quân cách
mạng nấu chảy để đúc súng thần công).
Place des Vosges, một khu dân cư yên bình (rất đắc đỏ) trong khu Le Marais
Xa
hơn về phía Bắc là Square du Temple (quận 3). Gọi là Temple (đền thờ, ở
đây phải hiểu là Hiệp sĩ) vì nơi đây trước kia là một pháo đài phòng
thủ kiên cố của giáo phái Ordre des Templiers (Giáo phái Hiệp sĩ), được
thành lập năm 1119 tại Jérusalem (Do Thái) để bảo vệ tín đồ đạo Công
giáo trước sự tấn công của quân Hồi giáo trong cuộc thánh chiến. Sau khi
đánh đuổi quân Hồi ra khỏi Jérusalem, những tu sĩ-chiến sĩ này chuyển
nghề để trở thành những nhà tài phiệt, chủ ngân hàng hùng mạnh có mặt
tại khắp Châu Âu. Tại Paris, giáo phái Les Templiers chọn địa điểm này
làm môt pháo đài kiên cố, với những tường thành thật cao và một cầu quay
(pont levis) thật lớn. Khu này có thể gọi là một quốc gia trong một
quốc gia ; những người chống đối triều đình đều được vào đây cho tị nạn.
Sức mạnh và sự giàu có của giáo phái này làm vua Philippe Le Bel lo
ngại ; năm 1307 nhà vua lập mưu bắt tất cả các thủ lãnh của giáo phái
này đem thiêu sống và tịch thu toàn bộ tài sản kếch sù của họ ; năm 1312
các tu sĩ dòng Saint Jean được đưa vào thay thế. Pháo đài này sau đó
biến làm ngục giam những gia đình hoàng tộc dưới thời Cách Mạng Pháp,
trong đó có vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette năm 1792, vua
Louis XVI rời nhà giam này lên máy chém ngày 21-1-1793. Thời gian sau,
vua Louis XIII (em Louis XVI) biến khu này thành một khu dân cư bình
thường để xóa tan một quá khứ đau buồn. Tuy vậy, quanh Square du Temple
vẫn còn lưu dấu nhiều ngôi nhà đồ sộ có từ thời Trung Cổ và Đại Thế Kỷ,
như Tòa Thị Chính quận 3 (Mairie du 3e arrondissement, rue de Bretagne,
quận 3), trường Conservatoire des Arts et Métiers (Boulevard Saint
Martin, quận 3), Lycée Turgot, quận 3).
Pháo đài của Giáo phái Hiệp sĩ ngày nay đã mất hết dấu tích chỉ còn lại huyền thoại – Ảnh minh họa
Lâu đài của Giáo phái Les Templiers được vẽ lại theo ký ức cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20
Hôtel
de Ville (4 Place de l’Hôtel de Ville, quận 4) là một công trình kiến
trúc vừa vĩ đại vừa sang trọng. Năm 1357, viên thanh tra trưởng các
phường buôn Etienne Marcel mua mặt căn trên địa điểm này, lúc đó được
gọi là Les Piliers (nhà cột trụ), vì tầng trệt là những cột trụ tạo
thành một hành lang lớn, để tổ chức những buổi họp dành riêng cho các
thanh tra và đại diện giới trưởng giả của thành phố. Với thời gian, căn
nhà này được trang trí phong phú hơn và nới rộng thêm nhưng đến năm 1871
thì bị hỏa hoạn thiêu rụi tất cả. Năm 1882, chính quyền thành phố quyết
định tái tạo lại hình dạng căn nhà này như ngày xưa. Nội thất của những
phòng họp được trang hoàng lại một cách sang trọng với những tác phẩm
điêu khắc chạm chìm vào vách tường, những bức tượng điêu khắc chạm trổ
tinh vi, những tranh vẽ vĩ đại, những tấm thảm rực rỡ và những cầu thang
bằng gỗ quí được đánh chùi bóng loáng dưới những trần nhà thật cao,
được trang trí vừa tỉ mỉ vừa sang trọng và chiếu sáng bởi những lồng đèn
bằng pha lê. Phía trước tòa nhà là một sân rộng với những hồ phun nước
được dùng làm nơi tụ họp của quần chúng mỗi khi có lễ hội lớn.
Dưới
thời Cách Mạng Pháp, căn nhà được tái tạo lại này biến thành Hôtel de
Ville de Paris, tức Tòa hành chính thành phố, để quản trị thành phố
Paris và vẫn còn giữ nguyên chức năng cho tới ngày nay. Sự sang trọng và
phong phú của Tòa hành chính Paris là niềm tự hào không những của riêng
người dân Paris mà còn là của cả nước Pháp, những buổi tiếp tân tại đây
làm nhớ lại những buổi tiếp tân sang trọng và thời thượng của quá khứ.
Những nhân vật chính trị lớn của Pháp ai cũng muốn làm chủ tòa nhà này
trong một thời gian để chuẩn bị leo lên những nấc thang khác trong sự
nghiệp chính trị.
Hôtel
de Ville, nếu dịch sát nghĩa là “Khách sạn Thành phố” nhưng thật ra đó
là “tòa thị chính”, bởi vì sau Cách Mạng Pháp 1789 quần chúng đi theo
cách mạng vào thành phố vừa làm việc vừa ngủ qua đêm trong những dinh
thự của giới hoàng tộc và những cơ sở kiến trúc công cộng nên gọi chung
tất cả là “hôtel”, như Hôtel de Ville (Tòa hành chính thành phố), Hôtel
des Impôts (Nha thuế vụ), Hôtel de la Préfecture (Tòa hành chính tỉnh),
Hôtel de la Police (Nha cảnh sát), Hôtel de Lamoignon (Nhà của dòng họ
Lamoignon), Hôtel de Rohan (Nhà của dòng họ Rohan), v.v…
Kiến
trúc tiêu biểu của Đại Thế Kỷ trong khu Marais là Hôtel de Lamoignon
(24 rue Pavée, quận 4). Khách sạn này được xây dựng năm 1584 cho con gái
vua Henri II là công chúa Diane de France, hầu tước d’Angoulême, sau đó
bán lại cho nhà quí tộc Lamoignon và bị tịch thu dưới thời cách mạng.
Sau đệ nhị thế chiến, tòa nhà này được tu bổ lại dùng làm thư viện lịch
sử của thành phố với 80.000 tranh vẽ, hơn một triệu tác phẩm viết tay và
in về lịch sử Paris. Sân phía trong của tòa nhà này là sáu trụ cao được
dựng dính vào vách tường và được trang hoàng rực rỡ với những tượng đầu
chó, cung, tên và bao đựng tên như để tôn vinh tên của công chúa. Diane
là nữ thần săn bắn trong thần thoại La Mã.
Đầu
thế kỷ 18, hoàng thân Armand Rohan-Soubise có ý định muốn tặng cho cô
con gái lớn, công chúa Rohan, một ngôi nhà để làm quà cưới. Năm 1705,
Armand Rohan-Soubise mua được hai căn nhà trong khu Marais và giao cho
kiến trúc sư Demair tái dựng và tân trang lại trong suốt 4 năm, và đến
năm 1709 thì hoàn tất. Không ngờ, với tài nghệ của Delmair hai căn nhà
trở thành những tác phẩm kiến trúc tuyệt vời. Armand Rohan-Soubise chọn
ngôi nhà đầu, ngày nay là Hôtel de Rohan (87 rue Vieille du Temple, quận
3), làm nơi cư ngụ và tặng cho cô con gái ngôi nhà thứ hai, ngày nay là
Hôtel de Soubise (60 rue des Francs Bourgeois, quận 3). Không vừa lòng
với ngôi nhà của mình, công chúa Rohan mời những nghệ nhân danh tiếng
thời đó và cũng là những người ái mộ mình như Van Loo, Restout, Natoire
và Boucher trang hoàng lại những căn phòng để làm nơi tiếp tân, tất cả
làm việc dưới quyền điều khiển của Germain Boffrand từ 1735 đến 1740. Từ
đó ngôi nhà của công chúa Rohan trở thành nơi tổ chức những buổi tiếp
tân thời thượng của giới quí tộc và trưởng giả lớn trong căn phòng hình
bầu dục do Natoire trang trí. Armand Rohan-Soubise là một người đam mê
ngựa cũng không chịu thua, ông thuê điêu khắc gia danh tiếng nhất thời
đó, Robert Le Lorrain, vào tạc bức tượng nổi trên cánh cửa lớn của
chuồng ngựa của mình, les Chevaux d’Apollon, từ đó căn nhà của ông trở
thành nơi hành hương của những người đam mê ngựa. Cả hai ngôi nhà này bị
tịch thu dưới thời cách mạng, cả gia đình dòng họ Rohan-Soubise đều bị
đưa lên máy chém. Chính quyền thành phố Paris trở thành sở hữu chủ hai
căn nhà sau 1800 dưới thời Napoléon I để làm nơi cư trú của sĩ quan và
năm 1927 được tân trang lại để trở thành bảo tàng viện. Hôtel de Rohan
hiện nay là bảo tàng tồn trữ một phần văn khố của nước Pháp và Hôtel de
Soubise vừa bảo tàng tồn trữ văn khố quốc gia vừa là bảo tàng lịch sử
nước Pháp, trong đó có bản di chúc của Napoléon I.
Bảo
tàng Carnavalet (23 rue de Sévigné, quận 3) nằm giữa khu Marais, gồm
hai ngôi nhà : Hôtel Carnavalet và Hôtel Le Peletier là bảo tàng lịch sử
thành phố Paris. Hôtel Carnavalet được xây dựng năm 1545 bởi kiến trúc
sư Nicolas Dupuis và Hôtel Le Peletier de Saint Fargeau xây dựng trong
thế kỷ 17. Như mọi kiến trúc khác trong khu vực, hai ngôi nhà này bị
tịch thu dưới thời cách mạng, các chủ nhân đều bị chết chém, và sau đó
dưới tghời napoléon I thuộc quyền sở hữu của thành phố Paris. Trong thế
kỷ 19, nhiều công trình tu chỉnh hai căn nhà, bị phá hoại trong thời
cách mạng, để bảo tồn văn hóa cũ. Nội thất hai căn nhà này đã được tái
tạo lại hoàn toàn và thông thương với nhau.
–
Hôtel de Carnavalet gồm có hai tầng, mỗi tầng với nhiều phòng nhỏ. Ở
tầng trệt nổi tiếng nhất là Salon de compagnie de l’hôtel d’Uzès, tức
phòng trò chuyện, được tân trang lại năm 1761 với các tranh vẽ của
Ledoux, các vách được lát bằng đá trắng, kế đến là những hành lang trưng
bày lịch sử Paris cho tới thời kỳ Phục Hưng, phía sau là những khu vườn
nội uyển được cát tỉa theo những hình rất đẹp. Ở tầng trên gồm có Salon
Louis XV, với những bàn ghế và những vật dụng trong hoàng triều, và
những hành lang trưng bày tác phẩm văn học thế kỷ 17 và 18 của bà
Sévigné, tác phẩm triết học của Jean Jacques Rousseau và Voltaire… Các
trần nhà đều được trang trí bằng những hình vẽ của thế kỷ 17 như họa sĩ
Charles Le Brun.
–
Hôtel Le Peletier gồm ba tầng. Tầng trệt trưng bày lịch sử của Paris từ
đệ nhất Đế Quốc đến đệ nhị Đế Quốc, không có gì đặc sắc, nhưng tầng thứ
nhất thì quá sang trọng. Tầng này trưng bày di tích lịch sử từ thời đệ
nhị Đế Quốc đến ngày nay. Đẹp nhất là Salon de bal de l’Hôtel de Wendel,
tức phòng khiêu vũ. Những ai muốn biết sinh hoạt của giới quí tộc Pháp
hồi đầu thế kỷ 20 thì phải đến đây mường tượng lại khung cảnh xa hoa và
giàu có của họ : nền nhà bằng gỗ được đánh xia (cire) bóng loáng, các
vách tường là những thảm nhung trang trí rực rỡ với những khăn quấn đỏ
thẩm, trần nhà là một tác phẩm điêu khắc tuyệt hảo, nói chung không bút
nào diễn tả nổi. Những phòng kế tiếp trưng bày những vật dụng thường
ngày, chỉ cần sở hữu một vật dụng thôi chủ nhân của nó phải mất một đời
để tấm tắc khen sự tinh hảo của những người sáng tạo ra nó, như thợ kim
hoàng Fouquet chẳng hạn. Tầng chót dành trọn cho thời Cách Mạng Pháp,
nơi đây trưng bày hình ảnh và chân dung những người trực tiếp liên quan
đến cách mạng, trong đó có chân dung hoàng hậu Marie Antoinette chịu
tang (do Alexandre Kucharski vẽ năm 1793) khi vua Louis XVI bị chăt đầu
và chân dung của Maximilien Robespierre, Georges Jacques Danton (người
khởi xướng và cũng là người yêu cầu chấm dứt chính sách Kinh Hoàng năm
1793 nhưng bị Robespierre đưa lên máy chém năm 1794).
Bảo
tàng viện Cognacq Jay (8 rue Elzévir, quận 3), còn gọi là Hôtel Donon,
được xây dựng năm 1575 do dòng họ Donon làm chủ, sau đổi thành Hôtel
Donon. Bị thời gian soi mòn, mặt tiền và nhiều phòng ốc khác được xây
dựng thêm trong thế kỷ 18. Gia đình Ernest Cognacq và vợ là Louise Jay
(hai người sáng lập cửa hàng La Samaritaine nổi tiếng), thuộc giới
trưởng giả Paris, mua lại vào đầu thế kỷ 20 để trưng bày công trình sưu
tập tác phẩm nghệ thuật và bàn ghế của thế kỷ 18. Sau khi cả hai qua đời
năm 1929, căn nhà và bộ sưu tập này được tặng lại cho chính quyền thành
phố Paris để trở thành một bảo tàng.
Hôtel
de Sully (62 rue Saint Antoine, quận 4) là trụ sở của Quỹ bảo tồn các
dinh thự và di tích lịch sử (Caisse des monuments historiques et des
sites) chuyên triển lãm những tranh ảnh nghệ thuật cận đại dưới hầm. Năm
1624, nhà tài phiệt Mesme-Gallet cho xây một căn nhà đồ sộ theo kiểu
Phục Hưng cho mình ở ; năm 1634 bán lại cho công tước de Sully, bộ
trưởng thời vua Henri IV. Ông Sully liền cho sửa sang và trang trí lại
nội thất và thành lập khu vườn nội uyển nhỏ, gọi là Petit Sully ; cổng
ra vào được chạm trổ rất tinh vi và nghệ thuật với những vách tường chạm
khắc đủ hình tượng thú vật và ngoại cảnh. Căn nhà này bị chiếm hữu thời
cách mạng, thuộc về chính quyền Paris sau đó và hiện nay dùng làm bảo
tàng trưng bày những tác phẩm vẽ trên giấy bồi, họa đồ và văn khố thành
phố Paris.
Hôtel
de Coulanges (35 rue des Francs Bourgeois, quận 4) được Philippe de
Coulanges, cố vấn nhà vua, xây năm 1640 để ở. Người cháu gái bị mồ côi
của ông, Marie, được nuôi nấng và lớn lên trong căn nhà này và sau này
trở thành bà Nam Tước de Sévigné nổi tiếng. Năm 1662 thủ tướng Le
Tellier mua lại căn nhà này để sát nhập vào căn nhà khác của ông bên
cạnh (ngày nay là trụ sở của Tòa Nhà Châu Âu tại Paris). Căn nhà này,
được tân trạng lại trong suốt thế kỷ 18, là biểu tượng của kiến trúc thế
kỷ 16 và hiện nay là bảo tàng trưng bày cuộc đời của bà Sévigné và văn
hóa của Châu Âu.
Hôtel
Libéral Bruant (1 rue de la Perle, quận 3) thật ra là bảo tàng viện
Bricard, nơi trưng bày các bộ sưu tầm về ổ khóa, nắm cửa và vật cản cửa,
đặc biệt là những ổ khóa có từ thời La Mã cách đây 2000 năm. Libéral
Bruant là một kiến trúc sư kiệt xuất, ông là người xây dựng điện
Invalides, từ 1671 đến 1676, để chăm sóc thương bệnh binh. Căn nhà này
do chính ông xây dựng lấy dùng để ở, với lối kiến trúc hoàn toàn khác
với Invalides. Cửa chính vào căn nhà được trang trí rất đẹp với những
bức tượng chạm chìm và nổi. Bị cách mạng tịch thu, sau giao lại cho
thành phố Paris, căn nhà này đã được tu sửa lại rất nhiều để trở thành
bảo tàng ổ khóa, những người sưu tầm chìa khóa và những tay trộm cắp
chuyên nghiệp phải ồ lê lên thán phục trước những sáng kiến của người
xưa trong việc bảo vệ tài sản riêng của họ bằng những ổ khóa.
Căn
nhà số 1 rue du Figuier, quận 4 hiện nay, là Hôtel de Sens, một kiến
trúc còn sót lại của thời Trung Cổ. Nhìn từ xa người ta có cảm tượng đó
là một lâu đài của công chúa Lọ Lem, ngày nay là thư viện Forney bảo tồn
và lưu giữ những tác phẩm về nghề nghiệp và kỹ thuật của nghệ nhân
Paris từ xưa đến nay. Ngôi nhà này, hoàn tất năm 1519, được hồng y
Pellevé giáo phận Sens biến thành một pháo đài phòng thủ kiên cố năm
1594 chống lại sự tấn công của vua Henri IV vào Paris. Nhưng cuối cùng
pháo đài này cũng bị thất thủ và vua Henri IV chọn nơi ngôi nhà đẹp đẽ
này làm phòng the cho bà vợ cũ là Maguerite de Valois, được biết nhiều
dưới tên “la reine Margot”. Hoàng hậu Margot một người đàn bà dâm đãng
nhất thời đó, bà có cả một bộ sưu tầm tóc của những người đàn ông đã qua
tay bà ít nhất một lần trong căn nhà này.
Căn nhà số 1 rue du Figuier, quận 4 hiện nay, là Hôtel de Sens, một kiến trúc còn sót lại của thời Trung Cổ.
Căn
nhà số 60 rue des Archives, quận 3 hiện nay, là Hôtel Guénégaud, được
xây dựng vào giữa thế kỷ 17 bởi kiến trúc sư danh tiếng François Mansart
cho bộ trưởng tư pháp Henri de Guénégaud des Brosses. Căn nhà này, bị
hư hại nhiều dưới thời cách mạng và thuộc thành phố Paris sau đó, đã
được tu sửa lại và năm 1967 André Malraux biến thành bảo tàng viện săn
bắn và thiên nhiên của thành phố Paris. Bảo tàng này vừa trưng bày những
tác phẩm hội họa nổi tiếng của Rubens, Rembrant và Monet về thiên nhiên
vừa triển lãm những thành tích về săn bắn : những ngà voi to lớn, những
thú rừng quí hiếm được nhồi rơm cùng những vũ khí săn bắn như cung, nõ
với những bộ sưu tầm về súng săn của thế kỷ 16 và 17.
Ngôi
nhà số 5 rue de Thorigny hiện nay là Hôtel Salé là một ngôi nhà to lớn
được xây dựng năm 1656 cho Aubert de Fontenay, một người thu thuế muối,
vì thế căn nhà của ông mang tên Salé, có nghĩa là muối mặn. Sau ngày
Picasso chết, con cháu ông bán lại cho chính phủ Pháp một phần lớn tranh
vẽ và tượng của ông. Năm 1885, Tòa Thị Chính Paris chọn Hôtel Salé làm
Bảo Tàng Picasso, trưng bày cuộc đời của họa sĩ quá cố nổi tiếng Pablo
Picasso (1881-1973) qua những bức tranh và tượng tạc. (Picasso là người
Tây Ban Nha, tị nạn sang Pháp năm 1934, trốn chế độ độc tài Franco).
Những nét kiến trúc xưa của ngôi nhà được bảo tồn nguyên vẹn, gồm một
nhà trệt, một lầu, một căn hầm và một sân trong rộng lớn. Dưới hầm là
những tác phẩm vẽ từ thập niên 1950 đến năm 1973 ; nhà trệt và sân trong
tiễn lãm tranh và tượng sáng tác từ thập niên 1930 đến 1950, và lầu một
là những tranh vẽ từ đầu thập niên 1910 đến cuối thập niên 1920. Những
bức tranh tiêu biểu nổi tiếng của mỗi giai đoạn là Autoportrait (1901),
Les Deux frères (1906), Violon et partition (1912), Deux femmes courant
sur la plage (1922), Peintre avec palette et chevalet (1928), Femme
lisant (1932), Le Baiser (1969) ; những bức tượng tiêu biểu là Femme à
la mantille (1949), Les Baigneuses (1956).
Nói
đến khu Marais thì cũng phải nhắc đến những ngôi nhà thờ cổ kính. Đạo
Công giáo trở thành quốc giáo khi Clovis đánh bại quân La Mã năm 485,
lên ngôi vua và chọn Paris làm kinh đô của người Francs công giáo. Từ đó
trở đi giáo quyền và quân quyền hòa trộn với nhau, phong trào xây dựng
nhà thờ và tu viện cũng trở nên ồ ạt. Khu Marais nằm trong phong trào đó
nhưng chậm hơn bên kia bờ tả ngạn, vì khu sinh lầy Les Marais chỉ được
lấp bằng vào thế kỷ 14 và những ngôi giáo đường đúng danh nghĩa chỉ khởi
sự xây dựng từ thế kỷ 17.
Giáo
đường Saint Paul – Saint Louis (99 rue Saint Antoine, quận 4) được vua
Louis XIII đặt viên đá đầu tiên năm 1627, dành riêng cho các tu sĩ Dòng
Tên (Jésuites), với một nóc chuông cao 60 mét và được trang trí phong
phú. Đến năm 1762 các giáo sĩ này bị đuổi khỏi nước Pháp và ngôi giáo
đường này được giao lạo cho hội truyền giáo Compagnie de Jésus. Trong
thời cách mạng, giáo đường này bị cướp phá và bị hư hại nặng, đến giữa
thế kỷ được sửa sang lại với bức tranh thật lớn của Eugène Delacroix, Le
Christ au jardin des Oliviers, vẽ tặng vào giữa thế kỷ 19.
Giáo
đường Saint Gervais – Saint Protais (Place Saint Gervais, quận 4) được
xây dựng lại năm 1621, trên thầm một ngôi giáo đường xưa có từ thế kỷ 6,
để tưởng nhớ hai thánh tử đạo Gervais và Protais. Nhạc sĩ đàn orgue
François Couperin đã sáng tác nhiều nhạc phẩm dành riêng cho các buổi lễ
trong ngôi giáo đường này, truyền thống cử hành lễ ngày nay vẫn còn
tiếp tục với đoàn hợp xướng do các nam tu sĩ dòng Fraternité monastique
de Jérusalem hát, hấp dẫn cả thế giới.
Le
Cloitre des Billettes (24 rue des Archives, quận 4) là giáo viện duy
nhất còn sót lại từ thời Trung Cổ. Được xây dựng năm 1427, giáo viện này
gồm bốn hành lang với những cột chống vòm tròn dưới những nóc cao. Đến
thế kỷ 18 các tu sĩ dọn đi nơi khác, giáo viện này trở thành nơi hành lễ
của phe cải cách và nơi trình diễn âm nhạc.
Giáo
đường Notre Dame des Manteaux Blancs (12 rue des Blancs Manteaux, quận
4) được xây dựng năm 1648, trên thềm một tu viện cũ thuộc dòng Augustins
có từ 1258, để tôn vinh bà Maria, mẹ của Jésus. Vì các tu sĩ dòng
Augustins thường mặc áo thụng trắng nên ngôi giáo đường lấy luôn tên.
Trong thế kỷ 18, một bục cao đựng dựng lên giữa nhà thờ để hành lễ và
cũng là nơi để các dàn nhạc đến hòa tấu thánh ca.
Nhưng
Le Marais còn nổi tiếng với những con đường lịch sử, du khách phải dùng
chân lại ngắm nhìn từng căn nhà trong mỗi khu phố mới khám phá hết
những nét đẹp lịch sử của đời sống ngày xưa và thời nay.
–
Rue des Francs Bourgeois (quận 3 và quận 4), bắt đầu từ Hôtel de
Soubise và Musée Carnavalet đến Place des Vosges, là con đường còn lưu
giữ nhiều “hôtel” (nhà khách) có từ đầu thế kỷ 16 đến nay : Hôtel
d’Albre (số 31) với cánh cửa cổng vào chạm trỗ rất công phu, Hôtel de
Coulanges (số 37), Hôtel de Sandreville (số 26), Maison du 17ème siècle
(số 39), Hôtel d’Almeyras (số 30), v.v…
Rue des Francs Bourgeois (quận 3 và quận 4) là con đường còn lưu giữ nhiều “nhà khách” có từ đầu thế kỷ 16 đến nay
–
Rue des Rosiers (quận 4) trước kia là đường tuần canh của binh lính bảo
vệ lâu đài vua Philippe Auguste (1180-1223), hai bên đường được trồng
hoa hồng nên mới có tên là Rosiers. Con đường này ngày nay gần như là
con đường dàng riêng cho người Do Thái. Người Do Thái có mặt tại đây từ
thế kỷ 12 và bị đuổi khỏi khu phố vào cuối thế kỷ 14. Đến thời Cách Mạng
Pháp, vài trăm người Do Thái về lại nơi đây mua nhà và sinh sống bằng
nghề buôn bán tạp hóa và cho vay. Cuối thế kỷ 19 cộng đồng người Do Thái
trên con đường này gia tăng với sự di cư ồ ạt của người Do Thái
(ashkénazes) từ Trung Âu sang, sinh sống bằng nghề buôn bán sỉ ; đến
thập niên 1960, cộng đồng người Do Thái Bắc Phi (sépharades) tiến vào
hội tụ, sinh sống bằng nghề kim hoàng, may mặc.
Vào
giữa thập niên 1980, cộng đồng người Hoa Đông Dương và đầu thập niên
1990 người Hoa Hồng Kông tìm mua những khu phố lụp xụp của cộng đồng
người Bắc Phi trong khu vực để mở tiệm buôn bán. Họ nhận thầu gia công
quần áo may sẵn và đồ nữ trang của người Do Thái. Tiếng đồn xấu về cộng
đồng người Hoa tại Paris xuất phát từ khu này, số người Hoa nhập cảnh
lậu từ lục địa vào đây rất đông và sinh sống trong những căn phòng chật
chội và làm việc không ngừng nghỉ cho giới chủ thầu hàng may mặc. Cảnh
sát Pháp đã nhiều lần tiến vào khu này lục soát và bắt rất nhiều người
Hoa không có giấy tờ nhập cảnh hợp lệ.
Cộng
đồng người Hoa sinh sống xen kẻ với người Ả rập Bắc Phi và Do Thái
trong những con đường nhỏ hẹp của quận 3, như Rue Pavée (có từ năm 1450
là con đường được lát đá đầu tiên), Rue de Turenne (trước kia là con
đường dành cho vua đi với tên Allée du Roi), Rue Payenne (với những ngôi
nhà xưa rất đẹp), Rue Vieille du Temple (có từ thế kỷ 13), Rue des
Gravilliers (nổi tiếng với các cửa hàng buôn sỉ đồ da, nữ trang rẻ
tiền), Rue des Vertus (với các hàng quán ả rập), Rue Au Maire (khu bình
dân ồn ào), Le Carreau du Temple (gồm hai con đường : Dupetit Thouars và
Perrée là nơi buôn sỉ quần áo may sẵn), Rue du Temple với nhiều ngôi
nhà xưa…
Căn
nhà số 3 rue Volta (quận 3) là căn nhà xưa nhất khu vực, được xây dựng
vào khoảng năm 1300, tiêu biểu cho lối kiến trúc thời Trung Cổ với những
cột gỗ lớn chôn trong vách tường vôi và trên những cánh cửa bằng gỗ,
những bệ cửa sổ trước kia dùng làm nơi trưng bày hóa và những trần nhà
thấp (chỉ cao 2 mét).
Le
mémorial du Martyr Juif inconnu là một tượng đài tưởng niệm người Do
Thái vô danh dựng ở chân một ngôi nhà màu trắng, số 17 rue Geoffroy,
quận 4, hiện là trung tâm lưu trữ văn khố chứa đựng hơn 800.000 hồ sơ
người Do Thái tại Paris và 40.000 sách báo nói về cuộc sát hại người Do
Thái trong thời đệ nhị thế chiến.
Nguyễn Văn Huy