Paris bên bờ hữu ngạn – 3 (Nguyễn Văn Huy)

Khu Opéra (quận 1, 2, 8 và 9)

Phía
Bắc Vườn Tuileries và Bảo tàng Louvre là khu Opéra (Nhà Hát Lớn, theo
cách gọi của người Hà Nội). Một người không có cơ hội đi du lịch xa, chỉ
cần đi dạo quanh khu này một vòng cũng đủ khám phá thế giới. Không một
khách du lịch quốc tế nào đến Paris mà không ghé đến khu Opéra để mua
sắm hay ngắm nhìn những báu vật trần gian bày bán nơi đây. Nếu giá một
khu đất nào đắt nhất nước Pháp, chắc chắn đó phải là Quartier Opéra.

opera01

Khu
Opéra là nới mua sắm những hàng hiệu sang trọng nhất Paris (và thế
giới) – Thương xá Au Printemps là nới mà không một phụ nữ Sài Gòn không
biết tiếng

Nhưng
khu này nổi tiếng không phải vì sự sang trọng và đắt đỏ của nó mà là
hào quang của Thời Huy Hoàng (La Belle Epoque) thế kỷ 19 còn tỏa sáng
trong sinh hoạt thường nhật. Người ta đến đây để tìm lại chút xa hoa của
ngày trước còn sót lại trong các khách sạn, cửa tiệm và nhà hàng sang
trọng. Đó là những kẻ có tiền, còn khách du lịch bình thường thì sao ?
Không ai bị phân biệt đối xử cả, mọi người đều bình đẳng trước sự huy
hoàng của Paris, không ai bị đòi tiền pourboire (tip) khi ngắm nhìn
những di tích xưa. Không nơi nào trong khu này không để lộ những nét độc
đáo riêng ra ngoài đường phố : từ những bao lơn chạm trổ mỹ thuật trên
mỗi căn nhà đến từng khung cửa và chốt mở cửa, không cái nào giống cái
nào và cái nào cũng đẹp. Đó là chưa kể những chạm trỗ trên các vách
tường biểu lộ sở thích và trình độ văn hóa của những chủ nhân xưa.

Nhưng
vào khu Opéra phải biết cách đi, nếu không sẽ lạc vì sự hấp dẫn của các
công trình kiến trúc mỹ thuật và cửa tiệm sang trọng. Giữa trung tâm
khu này là hai kiến trúc đồ sộ : nhà hát Opéra Garnier và giáo đường La
Madeleine. Những con đường bao quanh hai kiến trúc này tập trung hầu hết
những ngân hàng, hãng du lịch và cửa hàng áo quần thời trang và mỹ phẩm
và sang trọng trong những thương xá lớn nhất của Paris. Chức năng của
các cửa tiệm này là bán hàng hóa nhưng tại đây người ta còn tặng cho
khách bộ hành giấc mơ trở thành người sang trọng và đẹp nhất trần gian.
Cách trình và chất lượng của hàng hóa trưng bày trong các tủ kính biểu
lộ sở thích và khả năng của từng thành phần xã hội.

Trở
về quá khứ. Trước kia khu này vẫn còn là một bãi đất hoang lầy lội với
những xóm lao động nghèo nàn có từ thời Trung Cổ. Khi hoàng hậu
Catherine de Médecis, vợ nhà vua quá cố Henri II (1547-1559), biến lò
gạch Les Tuileries thành một khu vườn dạo mát lớn năm 1564 thì khu Opéra
mới được đông người tới ở. Dân chúng từ khắp nơi đến khu này mua đất
dựng nhà và làm việc cho triều đình. Từ sau thế kỷ 16, khi toàn bộ đất
đai tại khu Marais quanh Louvre và Tuileries không còn chỗ để xây dinh
thự và nhà cửa mới, triều đình Pháp chọn khu Opéra ngày nay làm nơi giải
trí dành riêng cho giới thượng lưu, quí tộc. Giải trí thời đó gồm bốn
bộ môn : âm nhạc, ngâm thơ, bi kịch và múa hát. Nghệ sĩ từ khắp nơi được
tuyển về đây phục vụ vua chúa và giới quí tộc, mỗi buổi tối khu này
vang vọng tiếng nhạc và tiếng cười đùa của lãng khách. Những tay giang
hồ tứ chiến cũng về đây sinh sống bằng nghề bảo kê, nạn trộm cướp xảy ra
thường xuyên và không một đường phố nào tại đây có an ninh về đêm. Khu
Opéra trở thành nơi tụ tập đủ mọi thành phần xã hội, từ giới quan quyền
đến người thất chí, từ người giàu sang đến kẻ bần cùng, từ người lương
thiện đến kẻ gian manh.

opera02

Galeries La Fayette được trang trí huy hoàng và lộng lẫy vào những dịp cuối năm

Khu
này càng trở nên hỗn tạp khi vua Louis XIV dời cung điện Louvre về
Versailles năm 1682 ; khách giang hồ tứ xứ và gái mãi dâm ngày đêm náo
loạn các đường phố. Tình trạng mất an ninh kéo dài cho tới năm 1789,
những người làm cách mạng biến khu này thành nơi trình diễn những vở ca
kịch cách mạng tố cáo chế độ phong kiến. Nhưng sau vài năm tồn tại,
những vụ thanh toán lẫn nhau giữa những người làm cách mạng giới nghệ sĩ
cách mạng cũng bị mang họa theo vì mỗi người đều có một nhóm thân hữu
riêng, nhiều nhà hát phải đóng cửa, những người vô gia cư liền vào chiếm
cứ. Sinh hoạt tại đây chỉ bừng sống lại năm 1804 khi hoàng đế Napoléon I
biến khu này thành nơi giải trí cho sĩ quan và binh lính từ các mặt
trận trở về nghỉ dưỡng, gái giang hồ và khách tứ chiến từ khắp Châu Âu
tụ tập về đây sinh sống. Khi Napoléon I bại trận năm 1814, giới quân
nhân trở về quê quán cũ thì khu này chỉ còn lại những người sinh sống
bằng nghề ca vũ nhạc kịch phục vụ giới quan quyền dưới thời Phục Hưng
(Restauration).

Phải
chờ đến giữa thế kỷ 19, khu Opéra mới phục hồi những nét huy hoàng của
ngày xưa và còn tồn tại cho tới ngày nay. Hoàng đế Napoléon III
(1852-1870), cháu Napoléon I và là người sáng lập Đệ nhị Đế quốc (Second
Empire), là một người đam mê ca kịch, ông thường đi dự những buổi trình
diễn ca kịch tại khu này vào mỗi đêm tối. Biết rõ sở thích này, ngày
14/1/1858, một người Ý quá khích, Felice Orsini, phục kích ám sát
Napoléon III khi xe ngựa chạy qua ường Le Peletier để dự một buổi ca
kịch, nhưng việc mưu sát bất thành, Orsini bị bắt và bị xử tử. Cũng nên
biết nước Ý lúc đó được chia làm nhiều lãnh địa khi bị Napoléon I chiếm
đóng. Từ sau ngày đó Napoléon III quyết định xây một nhà hát lớn và đẹp
hơn để ông cùng hoàng tộc có thể vào thẳng nhà hát bằng xe ngựa một cách
an toàn. Ước muốn khùng điên này không ngờ trở thành hiện thực. Đồ án
xây dựng nhà hát do kiến trúc sư Charles Garnier vẽ được chọn sau một
cuộc thi tuyển gắt gao. Nam tước Haussmann được chỉ định thiết kế một
đại lộ rộng lớn (ngày nay là Avenue de l’Opéra, rộng 30 mét, dài hơn một
ngàn mét) để vị hoàng đế có thể dùng xe ngựa đi từ điện Louvre vào
thẳng nhà hát lớn một cách an toàn.

Đại
lộ Avenue de l’Opéra, được khởi công từ năm 1861 và hoàn tất năm 1876,
là một thí dụ điển hình về tài năng thiết kế đô thị của Haussmann. Những
con đường nhỏ khúc khuỷu và nhà cửa lụp xụp chung quanh có từ thời
Trung Cổ đều bị đập bỏ, dân cư trong những xóm lao động nghèo nàn được
dời đi nơi khác, chỉ những kiến trúc quan trọng và đẹp đẽ có từ thế kỷ
17 và 18 còn được giữ lại. Một cảnh quang hài hòa giữa những dinh thự
mới và cũ tạo cho đại lộ sự hùng tráng của một thời đại sáng chói, La
Belle Époque. Avenue de l’Opéra ngày nay qui tụ gần như những gì tinh
hoa nhất nước Pháp về đơi sống xa hoa thời thượng, do đó giá nhà cửa và
đất đai quanh đại lộ này rất đắt. Những thương xá sang trọng, hãng du
lịch lớn tranh nhau thành lập cơ sở. Những công ty mỹ phẩm và hãng du
lịch quốc tế cũng không bỏ lỡ cơ hội đến đây lập chi nhánh. Căn nhà số
27 là Trung tâm quốc gia về nghệ thuật tạo hình (Centre national d’arts
plastiques) với cánh cửa giả nổi tiếng do Fabio Rietti vẽ kiểu và thực
hiện. Nhà hàng Drouant cách đại lộ này vài thước, trên Place Gaillon, là
nơi trao giải Goncourt văn học Pháp mỗi năm. Quán giải khát Harry’s Bar
được Harry MacElhone thành lập năm 1913 đã được những văn lớn của Mỹ
như Francis Scott Fitzgerald và Ernest Hemingway chiếu cố lúc còn sinh
thời.

Năm
1862 công trình xây dựng nhà hát lớn Opéra bắt đầu, nhưng Napoléon III
không có may mắn khánh thành nhà hát mới do ông khởi xướng. Năm 1870
Paris bị quân Phổ chiếm đóng, Napoléon III phải chạy sang Anh tị nạn và
chết tại đó (1873). Công trình xây dựng nhà hát lớn chỉ tiếp tục khi
quân Phổ bị đẩy lui về nước năm 1871 và hoàn tất năm 1875. Ngày khánh
thành, toàn thể dân chúng Paris ồ lên kinh ngạc trước một kiến trúc vĩ
đại không giống với những gì đã thấy từ trước. Đó là một công trình pha
trộn giữa những yếu tố cổ Hy Lạp và La Mã với sự hùng tráng của La Belle
Époque, mỗi chi tiết kiến trúc trong và ngoài nhà hát là một tác phẩm
nghệ thuật toàn hảo. Để nhớ ơn người xây dựng, nhà hát lớn mang tên
Opéra Garnier (Place de l’Opéra, quận 9) và trở thành một trong những
báu vật văn hóa lớn của nước Pháp nói chung và của Paris nói riêng. Từ
đó, Opéra Garnier thu hút mọi sinh hoạt phụ thuộc về ngành ca nhạc kịch
của thành phố Paris, nhiều cửa hàng thời trang danh tiếng quốc tế (như
Marks & Spencer) được xây dựng chung quanh để phục vụ những mệnh phụ
giai nhân và giới hào hoa phong nhã.

opera3

Nhà hát Opéra Garnier

Nhìn
từ xa Opéra Garnier giống một chiếc bánh sinh nhật khổng lồ với mái vòm
hình tròn mạ vàng óng ánh. Đến gần là một kiến trúc pha trộn nhiều
trường phái mỹ thuật đủ loại, từ cổ điển đến baroque, với những nóc vòm
hình tháp tròn, cột chống cao, tượng và hình chạm khắc đủ kiểu và đủ cỡ
bằng đá vôi, đá cẩm thạch hay bằng đồng dựng trên những nóc nhà hay
quanh nhà hát. Công trình này được giới kiến trúc ghi nhận là tác phẩm
tiêu biểu thời Napoléon III. Trên đỉnh vòm nhà là tượng nữ thần nghệ
thuật mạ vàng 24 karats có cánh đứng giữa hai thiếu nữ ngồi dưới chân do
điêu khắc gia Gurnery tạc. Bốn góc trên nóc tòa nhà là tượng bốn thiên
thần có cánh khổng lồ, cao 2 mét mạ vàng 24 karats, tượng trưng cho bốn
bộ môn nhạc kịch : âm nhạc, thơ kịch, ca kịch và múa ballet. Mỗi vách
tường là những tác phẩm điêu khắc tinh vi diễn tả những đoạn ca kịch nổi
tiếng từ thời Hy Lạp đến thời La Mã, tất cả được chiếu sáng bởi hàng
chục tượng thiếu nữa khỏa thân bằng đồng đội đèn. Chung quanh là hàng
chục tượng mỹ nữ khỏa thân to lớn bằng đá để lộ những bộ ngực no tròn và
cân đối, như để thách thức sắc đẹp của mình với thời gian, hai tay sử
dụng các loại dụng cụ về âm nhạc.

Mặt
tiền của Opéra Garnier là những bậc cấp bằng đá vôi cao cách mặt đất
hai mét dẫn vào nhà hát bằng bảy cửa hình vòng cung chạm trỗ cẩn thận
trước khi dẫn vào cửa chính, ở giữa mỗi cửa là tượng một kịch tác gia
nổi tiếng. Cũng ở mặt tiền lầu hai, được chống bằng tám cặp cột đá vôi
lớn cao trên 6 mét, là một dãy hành lang để khách xem hát hóng mát hay
nghỉ giải lao, trần nhà được tô vẽ rất mỹ thuật. Cửa chính ra vào nhà
hát là một cầu thang danh dự gồm nhiều bậc cấp dẫn lên đại sảnh dùng làm
phòng đợi, hai bên vách tường được trang trí bằng những tranh vẽ bằng
mảnh đá men (mosaique). Cánh cửa gỗ đồ sộ ra vào thính đường được chạm
trỗ công phu dẫn khách vào một không gian rộng 11.000 mét vuông. Thính
đường này có thể chứa 2.200 người xem gồm nhiều dãy ghế lót bằng vải
nhung đỏ ở tầng trệt và bốn loges (chỗ ngồi có ngăn che cách) dành riêng
cho khách danh dự phân bố trên bốn tầng lầu ở ba góc tường đối diện với
sân khấu chính. Lúc xây dựng, Garnier có thiết kế riêng cho Napoléon
III một loge đặc biệt ở giữa thính đường để xem hát mà không sợ bị ám
sát, ngày nay loge này chỉ dành riêng những vị quốc trưởng hay nhân vật
thật quan trọng trong chính phủ.

Sân
khấu chính gồm nhiều ngăn, có thể chứa 450 diễn viên trình diễn trong
những sân khấu nhỏ với những hoạt cảnh khác nhau, mỗi hoạt cảnh được kéo
bằng những trục quay tay, thời gian thay đổi một hoạt cảnh không quá
hai phút vừa đủ để bức màn kết thúc một đoạn kịch vừa hạ xuống liền được
kéo lên cho màn kịch kế tiếp. Trang trí bên trong thì không ngòi bút
nào diễn tả một cách đầy đủ, đó là cả một công trình vĩ đại được chăm
sóc từng chi tiết nhỏ nhất, không một sai sót. Trên cao và ở chính giữa
là một lồng đèn lớn, nặng sáu tấn, với hàng trăm bóng đèn nhỏ soi sáng
khắp thính phòng. Trần nhà được tô điểm bởi những tác phẩm hội họa về ca
nhạc kịch của những họa sĩ lớn. Năm 1964, họa sĩ Chagall vẽ lại trên
nóc thính đường chín (9) vỡ hát lớn đã trình diễn tại đây và còn tồn tại
cho tới ngày nay.

Cách
Opéra Garnier năm sáu dãy nhà là nhà thờ Sainte Marie-Madeleine, gọi
tắt là La Madeleine (Place de La Madeleine, quận 8). Nữ thánh
Marie-Madeleine là một kỹ nữ hồi lương, chị của Lazare (một người cùi
được Jésus chữa khỏi bệnh), đã lau xác Jésus de Nazareth khi đem từ thập
tự giá xuống chôn và đã chứng kiến Jésus phục sinh theo lời kinh thánh
(!). Trên danh nghĩa đây là một giáo đường (église) nhưng phải gọi là
một ngôi đền (temple) mới đúng. Thật vậy, đây là một kiến trúc đồ sộ
kiểu Hy Lạp không giống một giáo đường công giáo cổ điển nào tại Pháp từ
trước đến nay.

Việc
xây dựng giáo đường này cũng lắm gian nan và trắc trở. Nhận thấy tình
trạng an ninh và đạo đức tại khu này ngày càng xuống cấp, năm 1764 giáo
hội công giáo Pháp cho xây một giáo đường mới để cải hóa thành phần tệ
đoan trong khu vực. Kiến trúc sư Pierre Contant d’Ivry được giao lãnh
nhiệm vụ xây dựng nhưng chẳng may qua đời nửa chừng, công trình bị gián
đoạn. Khi kiến trúc sư Guillaume Couture được chỉ định thay thế, toàn bộ
đồ án cũ bị bỏ. Công trình xây dựng đang tiến hành dở dang thì Cách
mạng Pháp 1789 ập đến, công tác bị ngừng trệ vì thiếu ngân sách. Phải
đợi tới 1804, Napoléon I muốn biến ngôi nhà thờ đang xây dở dang này
thành một ngôi đền lớn tôn vinh những chiến công của Đại Quân Pháp
(Grande Armée), kiến trúc sư Pierre Vignon được giao trọng trách đó.
Thay vì tiếp tục đồ án cũ, Vignon phá bỏ tất cả để biến giáo đường cũ
thành một ngôi đền Hy Lạp đồ sộ, có thể nhìn thấy từ quảng trường La
Concorde. Đang tiến hành nửa chừng thì công trình xây dựng lại dở dang
vì Napoléon I thua trận 1814. Phải chờ đến thì vua Louis Philippe
(1830-1848) công tác xây dựng mới được tiếp tục. Cũng nên biết Louis
Philippe là một nhà vua ôn hòa, những di tích tiêu biểu của một quá khứ
bạo lực đều được tôn trọng ; ông muốn hòa giải người Pháp với nhau và
cho xây quảng trường Concorde để nhắc nhở người Pháp thương yêu và giúp
đỡ thay vì xung đột chém giết lẫn nhau. Ngôi đền được hoàn tất năm 1845
nhưng trở về chức năng cũ là một giáo đường đúng nghĩa. La Madeleine
ngày nay là một trong những kỳ quan của thành phố Paris.

opera2

Giáo đường La Madeleine

Cổng
chính đi vào giáo đường là hai cánh cửa bằng đồng vĩ đại chạm khắc tinh
vi. Bên trong được trang trí một cách hài hòa tương xứng với sự to lớn
của kiến trúc với bức tranh sơn dầu vĩ đại của họa sĩ François Rude ở
cửa ra vào mang tên Baptême du Christ (Lễ rửa tội của đấng Christ). Bàn
thờ chính tòa là tượng nữ thánh Madeleine được thiên thần có cánh to lớn
bằng thạch cao bao quanh, hai bên bàn thờ là tượng hai thiên thần có
cánh chấp tay cầu nguyên dưới những trụ cột kiểu Hy Lạp. Vòm giáo đường
cao 18 mét được trang trí bởi những bức tranh sơn dầu diễn tả cuộc đời
và công đức của những người mộ đạo như nữ thánh Catherine Labouré,
Richelieu, thánh Louis, hoàng đế Constantin và Napoléon I được giáo
hoàng Pie VII tấn phong. Dàn orgue (phong cầm) vĩ đại trong ngôi giáo
đường này, do Cavaillé-Coll thiết đặt năm 1846, là một trong vài dàn
orgue xưa nổi tiếng nhất thế giới, âm thanh vừa thanh vừa thánh thót dẫn
người dự lễ chìm đắm trong sự trang nghiêm hiểm có.

Khác
với sự trang nghiêm của giáo đường, quảng trường Madeleine (Place de La
Madeleine, quận 8) là nơi thị tứ sầm uất. Tất cả các gian hành thực
phẩm sang nhất Paris đều tập trung nơi đây : Fauchon (26 Place de la
Madeleine), Hédiard (thức ăn chế biến sẵn), Maison de la Truffe (chuyên
bán nấm truffe), Crepet Brussol (chuyên về fromage), Caviar Kaspia
(chuyên bán caviar biển Caspienne), nhà hàng Maxim’s, v.v… Truffe là
một loại nấm hiếm quí, rất đắt tiền và ăn rất ngon. Người ta phải dùng
một loại heo đặc biệt để đào tìm nấm truffe dưới chân những gốc cây sồi,
nấm truffe có màu đen và thường nằm sâu dưới mặt đất 20 cm. Giá một kí
nấm truffe có thể lên đến 2.000 USD, tùy theo mùa. Ngày nay Trung Quốc
cũng sản xuất loại nấm này, giá có rẻ hơn, nhưng phẩm chất thua rất xa.
Quanh quảng trường còn có những gian hàng bán champagne, chocolat, đặc
biệt là chocolat của Madame de Sévigné, trái lựu grenadille của Brazil,
trứng caviar của Iran. Trứng caviar lấy từ bụng cá sturgeon (cá lưỡi
kìm) trong Biển Đen. Cá sturgeon trong vùng biển Iran cho trứng ngon
nhất, hơn rất nhiều lần cá sturgeon trong vùng biển của Nga hay Thổ Nhĩ
Kỳ, hay được nuôi ở những nới khác. Theo giới sành điệu hạng sang thì
trứng caviar phải ăn sống và uống với rượu champagne hảo hạng thì khẩu
vị tăng thêm nhiều lần. 
Champagne cũng có nhiều loại nhưng phải là champagne của tỉnh Reims sản xuất mới ngon. Chocolat
cũng có nhiều loại, loại ngon nhất là chocolat đen, khi ăn phải nhai
ngốn nghiến chứ không được ngậm tan trong miệng, có như thế thì mới
hưởng thụ trọn vẹn được mùi vị. 

opera03

Bên trong Thương xá La Samaritaine 

Khu
Opéra có tám đại lộ rộng trồng cây lớn (boulevard) – Madeleine,
Capucines, Italiens, Montmartre, Poissonnière de Bonne Nouvelle, Saint
Denis và Saint Martin – tập trung những cửa hàng thời thượng, tiệm giải
khát sang trọng nhất của Paris từ thời Napoléon III tới nay. Các đại lộ
này là nơi mua sắm hay điểm hò hẹn của giới thượng lưu, quí tộc hay
người có tiền. Hai anh em Lumière, cha đẻ của ngành điện ảnh trình chiếu
lần đầu tiên một khúc phim cho quần chúng xem trong quán Grand Café
(14, boulevard des Capucines) ngày 28/12/1895, nhiếp ảnh gia quốc tế
Nadar cũng mở trên đại lộ này studio chụp ảnh đầu tiên. Nhưng được chiếu
cố nhiều nhất là quán Café de la Paix (12, boulevard des Capucines),
cạnh Opéra Garnier do chính Garnier vẽ kiểu và trang trí, chỉ cần ngồi
đây giải khác một vài phúc người ta sẽ khám phá đầy đủ giới tao nhân mặc
khách quốc tế có mặt tại Paris. Dọc các đại lộ lớn này còn có các nhà
hát kịch khác như Variétés (có từ 1807), Nouveautés (có từ 1920), rạp
chiếu bóng Rex (có từ 1932), v.v…

Nét
duyên dáng của khu Opéra là những ngỏ hẻm có mái che (passages hay
galeries) có từ thế kỷ 19, nối liền những đại lộ với nhau, tại đây những
cửa tiệm sang trọng trưng bày những mặt hàng làm vừa lòng những khách
hàng khó tính nhất, vừa hiếm có vừa tốt bền. Sau công trình đại tu sửa
Paris của nam tước Haussmann, Paris ngày nay chỉ lại còn khoảng 30 ngỏ
hẻm loại này. Nằm trên đại lộ Montmartre là Passage Jouffroy với những
cửa tiệm bán đồ chơi trẻ em và sách báo về điện ảnh và nhạc kịch.
Passage des Panoramas (số 11 boulvard Montmartre và số 10 rue Saint
Marc, quận 2) là ngỏ hẻm đầu tiên được thí nghiệm đèn đường thắp sáng
bằng khí đốt năm 1817 và cải tiến thêm để trở thành galerie năm 1834.
Passage des Princes (số 97 rue de Richelieu và số 5 boulevard des
Italiens, quận 2). Ngỏ hẻm số 4 đường Petits Champs, quận 1, là Galerie
Vivienne được xem là đẹp nhất với những salon de thé thanh lịch mà ghế
bàn được bày giữa lối đi lát đá với những hình bằng đá tráng men, tiệm
bán áo quần thời trang của Jean Paul Gaultier được đông người chiếu cố.
Đối diện với Galerie Vivienne là Passage des Petits Pères dẫn đến nhà
thờ Notre Dame des Victoires. Kế bên là Galerie Colbert (rue de la
Banque, quận 1), nơi còn lưu giữ ngôi nhà của Colbert (bộ trưởng thương
mại và văn hóa thời vua Louis XIV thế kỷ 17) và bảo tàng nghệ thuật sân
khấu (Musée des Arts du spectacle). Passage Choiseul (23 rue Saint
Augustin và 40 rue des Petits Champs, quận 1) với những sinh hoạt buôn
bán ồn ào ngược với Galerie Véro Dodat yên tịnh trong một khung cảnh
trang trí độc đáo. Square Louvois (quận 1) lưu giữ một trong những máy
nước (fontaine) đẹp nhất Paris với bốn tượng thiếu nữ khỏa thân tượng
trưng bốn con sông lớn của Pháp : Loire, Seine, Garonne và Saône.

opera4

Paris có 1200 Fontaine Wallace cung cấp nước uống miễn phí cho mọi người

Musée
Grévin (10 boulevard Montmartre, quận 8), thành lập năm 1882, trưng bày
các tượng những nhân vật nổi tiếng bằng sáp. Tầng trệt triển lãm những
nhân vật chính trị và quân sự cận đại ; lầu một gồm hai phòng : Palais
des Mirages trưng bày những nhân vật nổi tiếng về âm nhạc và nhạc thể
thao, và Le Cabinet Fantastique trưng bày những nhân vật nổi tiếng trong
giới văn học, nghệ thuật. Phòng triển lãm dưới mặt đất trưng bày tượng
những nhận vật bằng vàng và đá cẩm thạch (tượng vua Louis XIV lúc bị
bắt).

Musée
de l’Opéra (8 rue Scribe, quận 9) trước kia là nhà riêng của Napoléon
III triển lãm lịch sử hình thành Opéra Garnier, tranh ảnh, trang trí sân
khấu, các giải thưởng, hình kỷ niệm, áo quần và đồ trang điểm cùng
tượng và hình những nghệ sĩ danh tiếng đã trình diễn trong nhà hát này,
đặc biệt là đôi giầy múa ballet của nghệ sĩ Nijinsky. Thư viện của bảo
tàng chứa trên 80.000 tài liệu sách, báo, gần 100.000 tranh ảnh liên
quan đế nhà hát từ khi thành lập đến nay.

Hôtel
Drouot (9 rue Drouot, quận 9) không phải là một khách sạn mà là một nhà
bán đấu giá nổi tiếng nhất thế giới (Maison des Ventes de France). Ngôi
nhà này được xây dựng năm 1851 thuộc quyền sở hữu của bá tước (comte)
Antoine Drouot, một vị tướng của Napoléon I, năm 1980 được tân trang lại
gọi là Nouveau Drouot để có thể chứa thêm người tham dự các cuộc đấu
giá, phần lớn là đại diện những tiệm sưu tầm đồ cổ nổi tiếng như
Sotheby’s, Christie’s of London. Những ai không thể tham dự các cuộc đấu
giá tại đây có thể ngắm nhìn những đồ vật trúng thầu trưng bày trong
các tiệm bán đồ cổ chung quanh.

Palais
de la Bourse (4 Place de la Bourse, quận 2) là một ngôi nhà đồ sộ, kiến
trúc theo kiểu tân cổ điển Hy Lạp, do kiến trúc sư Brongniart thực hiện
năm 1808 dưới thời Napoléon I. Lúc đầu Napoléon I muốn dùng ngôi nhà
này làm nơi lượng giá những chiến lợi phẩm do ông mang về từ các chiến
trường Châu Âu. Năm 1826 trở thành thị trường chứng khoán (Bourse) của
Pháp, ngày này là thị trường chứng khoán Paris, CAC 40. Chính giữa ngôi
nhà là một phòng lớn gọi là Salle de la corbeille (phòng đựng giỏ). Gọi
là Corbeille vì trước kia người ta bỏ phiếu mua trị giá cổ phần những
hãng mang ra bán trong những cái giỏ lớn treo khắp phòng, mỗi giỏ là một
hãng ; cuối ngày người ta khui những giỏ đó ra và người tổ chức hô to
tên những ai trúng thầu với số tiền cao nhất. Ngày nay những giỏ và
người hô này không còn nữa, thay vào đó là hàng ngàn máy vi tính buôn
bán và trao đổi trị giá các cổ phần quốc tế, cuối phòng là một tấm bản
điện tử ghi chằng chịt trị giá các cổ phần trao đổi.

Cách
đó không xa là thư viện quốc gia Pháp, Bibliothèque nationale de
France-Richelieu (58 rue Richelieu, quận 1). Thư viện này được triều
Valois (các vua Charles và Henri, từ 1328 đến 1610) dùng làm nơi tồn trữ
văn khố gồm những những văn kiện hoàng gia. Năm 1537, vua François I ra
lệnh buộc các nhà ấn loát phải nộp lưu chiểu một bản bất cứ ấn phẩm nào
in ra, ngày nay thư viện này lưu trữ 12 triệu tác phẩm, trong đó có
nhiều ấn phẩm hiếm. Phòng ấn phẩm họa hình lưu giữ 12 triệu ấn phẩm, 2
triệu hình chụp từ khi phát minh máy ảnh đến nay. Phòng tham cứu có từ
thế kỷ 19 chỉ dành riêng cho giới nghiên cứu. Trong thư viện có một bảo
tàng trưng bày huy chương và đồ cổ, Cabinet des Médailles et des
Antiques, đặc biệt là các bộ sưu tầm nữ trang và vật dụng quí thời gallo
romain tìm được tại Berthouville và Sainte Chapelle.

Khu
Nouvelle Athènes, nằm trong quận 9, giữa các đường Notre Dame de
Lorette và Martyrs, là một khu phố yên tịnh với những ngôi nhà có từ thế
kỷ 18 và 19. Đây là thế giới của văn học và nghệ thuật trường phái lãng
mạn vì George Sand, Dumas, Berlioz, Delacroix, Murger, Chopin… đã
từng cư ngụ tại đây. Một vài bảo tàng nghệ thuật cần vào xem là Musée de
la Vie Romantique (16 rue Chaptal), Musée Gustave Moreau (14, rue de La
Rochefoucauld).

Les Champs Élysées (quận 8)

Muốn biết niềm hãnh diện thực sự của dân Pháp và Paris ở đâu, phải tìm đến Champs Élysées.

Champs
Élysées là gì ? Đó chỉ là một đại lộ lớn lát đá, rộng 71 mét và dài
trên hai cây số, nối liền quảng trường Concorde với đài chiến thắng Arc
de Triomphe, nhưng là nơi diễn ra những biến cố trọng đại nhất của nước
Pháp từ sau thế chiến II đến nay. Tuy có một hào quang khó một nơi nào
bì kịp, lịch sử hình thành đại lộ Champs Élysées rất mới, nó chỉ bắt đầu
từ thế kỷ 17 và phát triển theo từng thời kỳ thịnh suy của nước Pháp.

Năm
1616, hoàng hậu Marie de Médicis (vợ vua Henri IV) nới rộng khu vườn
Tuileries đến quảng trường Concorde để dạo mát. Năm 1667, kiến trúc sư
Le Nôtre được giao thiết kế lại khu vườn Tuileries và phá khu rừng trước
mặt quảng trường Concorde để mở một con đường dành riêng cho vua và
hoàng tộc phi ngựa từ Louvre đến thẳng Versailles săn bắn. Năm 1670, con
đường này hoàn tất và được đặt tên là Grand Cours dành riêng cho nam
giới (để phân biệt Cours de la Reine, một con đường khác dọc sông Seine
dành riêng cho nữ giới). Vô tình Le Nôtre đã khai sinh lộ trình chính
của đại lộ Champs Élysées, lúc đó chỉ là một con đường rừng.

Trong
thời Phục Hưng (Restauration), năm 1838 kiến trúc sư Jacques Ignace
Hittorff biến con đường rừng từ Concorde đến trạm métro Champs
Élysées-Clémenceau ngày nay thành những khu vườn nhỏ, với những bể phun
nước nằm rải rác khắp nơi với tượng mỹ nữ khỏa thân và trẻ em để làm thú
tiêu khiển cho người đi dạo. Khu vườn này không ngờ được rất đông người
chiếu cố, cuộc Triển Lãm Quốc Tế năm 1855 được tổ chức tại đây, nhà văn
Marcel Proust (1871-1922) thường thả bộ trên những lối đi trong khu
vườn này để tìm cảm hứng. Hittorff đã vô tình khai trương nửa đoạn đầu
của đại lộ Champs Élysées.

Nửa
đoạn sau, từ métro Champs Élysées đến đài chiến thắng Arc de Triomphe
de l’Étoile, được khởi công xây dựng từ cuối thế kỷ 18, nhà cửa và các
cửa tiệm sang trọng chỉ được dựng lên trong thời Napoléon III
(1852-1870), vì năm 1777 người ta còn thả bò ăn cỏ ở nửa phần trên của
đại lộ này. Ngày nay phố xá và hàng quán sang trọng hai bên đường ở nửa
phần trên của đại lộ Champs Élysées lúc nào cũng tấp nập. Các hãng xe
hơi (Peugeot, Mercedès…), hàng không (Air France, British Airways…),
cơ quan quảng cáo (Drugstore Publicis), rạp chiếu bóng (Gaumont, UGC),
phòng trà ca nhạc (Lido, Queen, Monte Cristo Café), nhà hàng sang trọng
(La Fouquet’s), các cửa hàng thực phẩm ăn liền (MacDonald, Quick), các
cửa hàng buôn bán âm nhạc (Virgin Megastore) và áo quần thời trang lúc
nào cũng đông khách.

Nhưng
cái gì đã làm đại lộ Champs Élysées nổi tiếng ? Những khu vườn và khu
phố vừa nói không có gì đặc sắc hơn các nơi khác ngoài khoảng không gian
xanh tươi nho nhỏ giữa một khu phố sang trọng. Cái đã làm đại lộ Champs
Élysées nổi tiếng là hình ảnh một nước Pháp hùng cường và hạnh phúc sau
thế chiến II vào những dịp lễ lớn. Đại lộ Champs Élysées, cũng giống
đại lộ The 5th Avenue của New York, là nơi những người có công với nước
Pháp phải đi qua để được dân chúng đón mừng. Champs Élysées, theo huyền
thoại Hy Lạp, là nơi cư ngụ của những vị anh hùng và người đạo đức.

opera5

Đội
kỵ binh Cộng hòa hộ tống xe chở Tổng thống Pháp và Tổng tham mưu trưởng
quân đội diễu binh trên Đại lộ Champs Elysées ngày Quốc khánh Pháp 14/7

Ngày
11/11/1919, quân đội Pháp duyệt binh lần đầu tiên trên đại lộ Champs
Élysées kỷ niệm năm đầu tiên thắng Đức sau đệ nhất thế chiến giữa tiếng
reo hò của dân chúng Pháp. Ngày 26/08/1944, dân chúng một lần nữa tràn
xuống đại lộ Champs Élysées đón mừng đoàn quân chiến thắng giải phóng
Paris do tướng Charles de Gaulle dẫn đầu. Từ sau ngày đó, chính phủ Pháp
tổ chức những cuộc duyệt binh lớn trên đại lộ Champs Élysées, từ đài
chiến thắng Arc de Triomphe de l’Étoile tới quảng trường Concorde, vào
những dịp quốc khánh 14/7 (ngày phá ngục Bastille năm 1789) và ngày
chiến thắng 11/11 (ngày Đức đầu hàng quân đồng minh năm 1918). Chính
quyền thành phố Paris đã làm tất cả để đại lộ Champs Élysées trở thành
niềm hãnh diện của không những dân Parisens mà còn cả cho nước Pháp
trong những ngày lễ lớn. Vào những dịp Giáng Sinh hay ngày đầu năm dương
lịch, đèn đuốc, cây cối và nhà cửa hai bên đường được trang hoàng lộng
lẫy, ban đêm chiếu sáng cả một góc trời. Đại lộ Champs Élysées chính vì
vậy được người Pháp tự hào là đại lộ đẹp nhất thế giới.

Thời
gian gần đây, đại lộ Champs Élysées còn là nơi tiếp đón những đội thể
thao quốc tế tham dự các cuộc đua xe đạp vòng quanh nước Pháp (Tour de
France), chạy việt dã (marathon de Paris), hay những đội đã mang lại
chiến thắng cho nước Pháp như bóng đá và dã cầu (tennis). Cờ tam tài
(xanh dương, trắng và đỏ) bay phầp phới trong tiếng cười vui. Vào giữa
đêm giao thừa (dương lịch), giới trẻ Pháp thường tràn ra đại lộ Champs
Élysées uống champagne, hôn nhau chúc mừng năm mới. Champs Élysées còn
là nơi gặp gỡ và giao lưu giữa các nền văn minh thế giới, các của hàng
đủ mọi quốc tịch phô trương đặc sản của quốc gia mình, từ tài chánh,
ngân hàng, du lịch, dịch vụ đến hành hóa tiêu dùng thường nhật. Cũng
trên đại lộ này, người da vàng, da trắng và da đen trao đổi với nhau
bằng đủ loại ngôn ngữ quốc tế.

Ai
đã làm Champs Élysées nổi tiếng ? Công trạng đầu tiên phải dành cho
hoàng đế Napoléon III, người muốn nới rộng và phát triển đại lộ Champs
Élysées đến đài chiến thắng Arc de Triomphe de l’Étoile để tôn vinh công
trạng của chú ông, hoàng đế Napoléon I và Đệ nhị Đế quốc của ông. Nhưng
người có công nhất là nam tước Haussmann (1809-1891), tỉnh trưởng
Paris. Haussmann được Napoléon III giao trách nhiệm phát họa và qui
hoạch lại một thành phố Paris dơ bẩn và bề bộn để trở thành một thành
phố Paris sang trọng, có qui củ, xứng đáng với chỗ đứng của nước Pháp mà
đại lộ Champs Élysées là trung tâm. Những công trình xây dựng dở dang
dưới thời Napoléon I đều được Haussmann hoàn tất, đặc biệt là đài chiến
thắng Arc de Triomphe.

Sau
những chiến thắng liên tiếp trên khắp chiến trường Châu Âu, Napoléon I
muốn dựng một đài chiến thắng để đoàn quân chiến thắng của ông đi qua
trước sự ngưỡng mộ của dân chúng, nhất là hoàng hậu Joséphine, vợ ông
lúc đó. Sinh trưởng tại đảo Corse, Napoléon Bonaparte là một người say
mê nền văn hóa La Mã và Ý Đại Lợi, trong suốt cuộc đời chinh chiến ông
luôn tìm cách chiếm toàn bộ nước Ý để mang về những báu vật thời La Mã.
Năm 1796, khi tiến vào Roma, tướng Bonaparte kinh ngạc trước sự hùng
tráng của các kiến trúc còn lại của thời La Mã, nhất là đài chiến thắng
nơi Julius Ceasar bắt các tù binh cuối đầu bước qua. Sau những chiến
thắng dồn dập trên khắp các chiến trường Châu Âu, Napoléon I cho xây hai
đài chiến thắng tại Paris : Arc de Triomphe de l’Étoile và Arc de
Triomphe du Carrousel (xem Quartier du Louvre đã viết), ông muốn ví mình
là Ceasar của thế kỷ 19.

Trở
về Pháp sau chiến thắng Austerlitz năm 1806 tại Áo, Napoléon I chọn địa
điểm cao nhất trên đường săn bắn Grand Cours do Le Nôtre khai sinh,
ngày nay là quảng trường Place Charles de Gaulle, để xây một đài chiến
thắng lớn cho đại quân của ông đi qua. Ngày 18/4/1806, Napoléon I đặt
viên đá đầu tiên và giao cho kiến trúc sư Jean Chalgrin thực hiện. Công
trình xây dựng chỉ chính thức bắt đầu năm 1809 sau nhiều tranh cãi gay
go về từng chi tiết của họa đồ. Việc xây dựng không tiến hành như mong
muốn vì cung đình bị xào xáo (hoàng hậu Joséphine bị truất phế vì không
có con nối dõi, hoàng hậu Marie Louise lên thay). Ngày làm đám cưới, năm
1810, chỉ móng nền đài nhà được hoàn tất, Chalgrin phải dựng một đài
chiến thắng bằng gỗ phủ vải trên móng nền để Napoléon I dẫn đầu đoàn
quân rước hoàng hậu Marie Louise từ địa điểm này về Louvre. Năm 1811
Chalgrin qua đời, công trình xây dựng bị dở dang.

Napoléon
I không có cái may được diễn hành dưới đài chiến thắng với Đại Quân
(Grande Armée) của ông, năm 1814 quân Pháp bị đánh bại tại Waterloo, đế
quốc Pháp tan rã. Năm 1815, Napoléon I sống lưu đày trên đảo Sainte
Hélène và mất tại đó năm 1821. Phải chờ đến thời vua Louis Philippe, đài
chiến thắng mới được tiếp tục và hoàn thành năm 1836 theo đúng từng chi
tiết trong họa đồ của Chalgrin.

opera6

Đài Chiến Thắng Arc de Triomphe

Arc
de Triomphe là một đài đá vôi đồ sộ hình chữ nhật – dài 45 mét, rộng 15
mét, cao 50 mét (vòm trong cao 29 mét) – sừng sửng đứng giữa một quảng
trường lát đá, đường kính 240 mét, với những cột mắt xích bao quanh. Bốn
chân đài là bốn khối đá lớn với những tác phẩm điêu khắc công phu ghi
lại những chiến thắng của Napoléon từ lúc khởi đầu đến năm 1810 do các
điêu khắc gia François Rude (tượng La Marseillaise 1792), Cortot (tượng
Traité de Vienne sau chiến thắng Wagram 1809), Seurre l’Ainé (tượng La
Bataille d’Aboukir 1799), Grechet (La Bataille d’Austerlitz), v.v… Đó
là chưa kể hàng trăm bức tượng khác được chạm thẳng trên bốn vách tường
chung quanh, do các điêu khắc gia danh tiếng Rude, Brun, Jacquet, Laité,
Caillouette và Seurre l’Ainé tạc, diễn lại cảnh từ lúc Đại Quân của
Napoléon đi chinh chiến và trở về sau những chiến thắng. Các vách tường
trên sân thượng được gắn 30 mộc đỡ tượng trưng cho những chiến thắng lớn
của Đại Quân Pháp từ 1790 đến 1810. Bên trong và dưới vòm chính là tên
660 tướng lãnh và sĩ quan tử trận được khắc trên đá ở mỗi chân đài. Ở
giữa vòm đài là ngọn đuốc bất diệt xây trên mồ một chiến sĩ vô danh được
mang về đây chôn ngày 28/1/1921. Đỉnh đài là một sân thượng rộng lớn có
thể quan sát toàn bộ cảnh quang Paris. Chỉ mặt tiền của đài chiến thắng
đối diện với đại lộ Champs Élysées là đáng chú ý, phía sau đài là những
khu nhà ở sang trọng, ban đêm các kỹ nữ và giới đồng tính luyến ái
thường ra đón mời khách mua hoa.

Năm
1854, nam tước Haussmann thiết kế 12 đại lộ lớn, mang tên những vị
tướng nổi tiếng của Pháp như Foch, Marceau…, chung quanh quảng trường
của đài. Nhìn từ trên cao, Arc de Triomphe giống hình một ngôi sao
(étoile) 12 cánh, từ đó quảng trường này có tên Arc de Triomphe de
l’Etoile (Quảng trường Chiến thắng Ngôi sao). Để tưởng nhớ công lao
người đã giải phóng Paris năm 1944, Arc de Triomphe de l’Étoile có thêm
tên Charles de Gaulle năm 1970 : Quảng trường ngôi sao đổi thành Place
Charles de Gaulle (Quáng trường Charles de Gaulle). Lái xe chung quang
quảng trường này rất khó, phải thật vững tay mới tìm một ngỏ để ra vì
không ai chịu nhường ai. Quảng trường Charles de Gaulle ngày nay là tụ
điểm chính của những trục lộ lớn trong quận 8.

Nửa
phần đầu của đại lộ Champs Élysées, từ Concorde đến khu vườn
Clémenceau, là những kiến trúc độc đáo tiêu biểu cho Thời Kỳ Đẹp (Bel
Epoque) : Le Pont Alexandre III (xem bài Sông Seine và Đảo Thị Trấn), Le
Grand Palais, Le Palais de la Découverte, Le Petit Palais, La Palais de
l’Élysée, Le Théâtre du Rond Point…

Le
Grand Palais (Porte A, avenue Eisenhower) là một kiến trúc khá độc đáo,
do kiến trúc sư Charles Girault vẽ kiểu, được xây dựng cùng thời với
cầu Alexandre III để tham dự cuộc đấu xảo quốc tế năm 1900 tại Paris.
Mục đích sử dụng của tòa nhà này là để trưng bày hàng hóa và vật liệu từ
khắp nơi mang đến, triển lãm xong tòa nhà phải được tháo gỡ để trả lại
cho khu vườn, do Hitorff vẽ kiểu, không gian yên tịnh của nó. Vì công
tác xây dựng tòa nhà quá công phu và phức tạp nên sau khi triển lãm xong
không ai đủ can đảm để tháo gỡ. Le Grand Palais còn tồn tại cho tới
ngày nay là vì lý do đó và trở thành một kỳ quan để mọi người đến thăm
viếng. Nét độc đáo của Le Grand Palais là sự tương phản của những vật
liệu xây cất. Móng nền nhà, các vách tường và cột chống chung quanh được
xây bằng bằng đá vôi như mọi kiến trúc cổ điển khác nhưng sườn và nóc
nhà được kiến tạo bằng những thanh sắt lớn để chống đỡ mái nhà lợp bằng
những mảnh kiếng lớn soi sáng nội thất. Ở giữa khu nhà là một tháp cao
hình tròn lợp bằng mảnh kiếng với những sườn sắt, mái nhà chung quanh
thì lập bằng những tấm đồng. Sau một thế kỷ tồn tại, ngôi nhà này đang
để lộ nhiều yếu điểm : nền nhà đang lún dần bởi sức nặng của những cột
sắt và trần nhà, một vài nơi bị niêm phong vì sợ trần nhà sụp xuống. Chi
phí bảo trì rất đắt. Tuy vậy nhìn từ bên ngoài đây là một kiến trúc
đẹp, hai góc trần nhà là hai bức tượng lớn do điêu khắc gia Récipon tạc
hình cổ xe do bốn ngựa kéo bằng đồng.

opera7

Le
Grand Palais, do kiến trúc sư Charles Girault vẽ kiểu, là một kiến trúc
khá độc đáo được xây bằng bằng đá vôi nhưng sườn và nóc nhà được kiến
tạo bằng những thanh sắt lớn để chống đỡ mái nhà lợp bằng những mảnh
kiếng lớn soi sáng nội thất. Hiện nay được làm nơi thi đấu các bộ môn võ
thuật Olympic Paris 2024

Le
Palais de la Découverte (Avenue Franklin D. Roosevelt), nằm phía sau Le
Grand Palais, được xây dựng năm 1937 bởi những nhà bác học để làm bảo
tàng phát minh khoa học. Kiến trúc của tòa nhà này cũng tương tự như
Grand Palais nhưng nhỏ hơn. Ở hai góc tòa nhà là hai bức tượng người
cưỡi ngựa bằng đồng rất sống động. Tại đây những phát minh khoa học thô
sơ đầu tiên được lưu trữ để giới thiệu cùng giới trẻ, ở tầng một là một
phòng triển lãm không gian ba chiều bầu khí quyển và vũ trụ chúng ta
đang sống.

Le
Petit Palais (Avenue Winston Churchill), cũng do Girault vẽ kiểu, được
xây dựng cùng thời với Le Grand Palais nhưng nhỏ hơn. Ngày nay là bảo
tàng Mỹ Thuật (Beaux Arts) của thành phố Paris, gồm hai phòng và năm
galeries : phòng triển lãm tác phẩm mỹ thuật từ thời cổ Ai Cập đến Châu
Âu thế kỷ 18, những tranh ấn tượng và tượng điêu khắc của những nghệ sĩ
danh tiếng ; phòng trưng bày sáng tác nghệ thuật của Pháp từ thế kỷ 19
trở về sau do chính quyền Paris trực tiếp đặt mua. Trần của các hành
lang và các phòng triển làm được trang trí bằng những bức tranh khổng
lồ.

Le
Palais de l’Élysée (55 rue du Faubourg Saint Honoré) được bá tước
Évreux xây dựng năm 1718, tòa nhà này trở thành nơi cư ngụ của bà huân
tước (marquise) Pompadour năm 1753, đến năm 1805 thuộc quyền sở hữu con
gái của Napoléon I, Caroline Bonaparte và chồng là thống chế Joachim
Murat. Tòa nhà này có hai gian phòng rất đẹp : Salon Murat dùng làm nơi
hội họp của Hội đồng bộ trưởng (Conseil des Ministres) mỗi sáng thư tư ;
phòng kế tiếp là Salon d’Argent, nơi Napoléon I ký giấy từ nhiệm ngày
22-6-1815 sau khi thất trận. Từ năm 1873, Palais de l’Élysée là Phủ tổng
thống Pháp, 20 vị tổng thống Pháp đã kế tiếp nhau vào biệt điện này làm
việc và cư ngụ lúc đương nhiệm. Nhà riêng của tổng thống nằm trên hướng
đường Élysée. Hiện nay là tổng thống Jacques Chirac, nhiệm kỳ
1995-2001. Quanh phủ tổng thống là tòa đại sứ các quốc gia lớn.

Những
ai ưa thích áo quần thời trang sang trọng và nữ trang đắt quí phải đến
đại lộ Montaigne ngắm nhìn. Những tác phẩm độc đáo của những nhà cắt may
và thợ kim hoàn danh tiếng nhất thế giới đều được trưng bày tại đây.
Gia đình những người giàu có nhất thế giới thường đến đây mua sắm, hai
Fashion in Paris có sức hấp dẫn kỳ lạ. Nhà hát kịch Théâtre des Champs
Élysées trên đại lộ này được anh em họ Perret xây dựng trước đệ nhất thế
chiến, do các kiến trúc sư Maurice Denis và Vuillard vẽ kiếu và ytrang
trí, vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay.

Musée
Jacquemart – André (158 boulevard Haussmann) trước kia là một ngôi nhà,
do kiến trúc sư Parent xây từ 1869 đến 1875 cho Edouard André. Xuất
thân từ một gia đình theo đạo tin lành giàu có, André là một quân nhân
đam mê nghệ thuật, ông tìm mua những tác phẩm nghệ thuật hay vật dụng cũ
về cất giữ. Sau khi cưới bà Nélie Jacquemart, hai vợ chồng cùng nhau đi
khắp Châu Âu mua lại những tác phẩm thời Phục Hưng của Ý, những tác
phẩm và đồ vật quí hiếm trong những thế kỷ 17 và 18 của Pháp, Hòa Lan và
Anh Quốc mang về lưu giữ. Trước khi qua đời năm 1912, bà Jacquemart
hiến cho Viện Pháp Quốc (Institut de France) toàn bộ những tác phẩm sưu
tầm trong thời son trẻ sau khi qua đời, căn nhà của hai ông bà trở thành
bảo tàng viện từ đó.

Thánh
đường Alexandre Nevski (12 rue Daru) có từ đầu thế kỷ 20, là nơi hành
lễ cho những người theo đạo công giáo chính thống (orthodoxe), đa số là
người Pháp gốc Nga. Thánh đường này có năm tháp chuông hình tròn, nội
thất được những nghệ sĩ từ Saint Peterburg đến trang trí.

Danh
lam thắng cảnh văn hóa của khu Champs Élysées còn rất nhiều, những ai
rảnh rỗi hãy thả bộ trên bất cứ con đường nào quanh đại lộ Champs
Élysées để khám phá thêm những điều kỳ thú, bất cứ con đường nào cũng có
một lịch sử và những nét độc đáo riêng.

Nguyễn Văn Huy

(08/08/2024)

About the author