Năm
1958, chàng sinh viên Trần Bích Lan khi về lại Việt Nam đã cho phổ biến
Thơ Nguyên Sa, một tập thơ gây chấn động trong giới yêu mến văn nghệ và
sinh viên học sinh Việt Nam Cộng Hòa thời đó. Nhiều bài thơ, trích
trong tuyển tập, đã được phổ nhạc và hát trong các câu lạc bộ sinh viên
và trên các làn sóng điện. Hình ảnh Paris qua những vần thơ, điệu nhạc
đó đã lôi cuốn biết bao tâm hồn thanh niên thời đó, và cho đến ngày nay
vẫn còn gây xao xuyến mỗi khi nghe lại.
Dưới cầu Mirabeau, nước sông Seine vẫn chảy… (thơ Apollinaire)
Làm sao quên được những vần thơ nhẹ đẹp và lãng mạn như áng mây khi ngày sắp tắt :
Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim…
Nguyên
Sa đã sống, đã yêu và lãng mạn hóa Paris, một thành phố mà anh tiếc nhớ
khi phải giã từ. Tình yêu đó anh trút vào từng dòng thơ, êm ái chuyền
vào máu những người chưa biết Paris yêu mến Paris và chia sẻ với anh
những thao thức xa vắng người yêu. Sau Nguyên Sa là cả một phong trào
nhớ lại Paris, bằng thơ và nhạc, lan khắp Sài Gòn. Không ai trong chúng
ta đã không một lần nghe đến “Mùa thu không trở lại” của Phạm Trọng Cầu,
“Tiễn em” thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy…
Paris rất đẹp. Paris rất lạ.
Paris
có nhiều điều để xem. Mỗi dinh thự, mỗi bờ tường, mỗi góc phố, mỗi viên
đá lót đường là mỗi kỷ niệm, mỗi tâm sự riêng. Khách lãng du phải để
tâm hồn thảnh thơi lắng nghe Paris kể lại những thao thức ở mỗi góc
đường và mỗi khu phố.
Khám
phá Paris giống như khám phá một kho tàng. Nếu chịu khó tìm tòi, Paris
sẽ trưng bày những bảo vật hiếm có. Paris rất tình cảm nhưng Paris cũng
rất lạnh lùng, có những người suốt đời ở trong và ở cạnh Paris nhưng
chưa bao giờ biết đến những báu vật của Paris. Khám phá Paris chính vì
vậy chỉ dành cho những người diễm phúc.
Báu
vật của Paris rất nhiều. Paris có gần 2.000 kiến trúc lịch sử và mỹ
thuật, gần 1.000 bức tượng chạm khắc tinh vi trưng bày trên khắp các
công viên, góc đường, nóc nhà, cửa ra vào, v.v… Nếu một thành phố nào
đó trên trái đất chỉ có một phần mười những gì Paris hiện có đã là một
niềm hãnh diện lớn. Chỉ cần đi dọc hai bờ sông Seine, trong 15 khu phố
(quartiers), chúng ta sẽ lần lượt khám phá những báu vật của Paris cất
giấu theo thời gian, đó là chưa kể những nơi mà lãng khách muốn đến
“hành hương” để tìm lại cảm giác mà những nhân vật tên tuổi đã từng để
lại.
Tượng Triomphe de la République (Chiến Thắng của nền Cộng hòa) được dựng trên công viên Nation, do điêu khắc gia Jules Dalou tạc năm 1889, phỏng
theo hình người phụ nữ, biểu tượng của nền Cộng hòa, đứng trên một quả
địa cầu được kéo bởi hai con sư tử dẫn dắt bởi thần Tự do ; tượng được
bao bọc bởi bốn nhân vật tượng trưng cho Lao động, Công lý, Hòa bình và
Giáo dục.
Viếng
thăm Paris phải bắt đầu từ sông Seine, dòng sông lịch sử đã sinh thành
Paris, sau đó tản bộ lên trên đảo Cité và sang hai bờ sông.
–
Tả ngạn có Quartier des Invalides và Tour Eiffel, Saint Germain des
Prés, Quartier Latin, Jardin du Luxembourg, Jardin des Plantes, Quartier
du Luxembourg, Montparnasse và Quận 13.
–
Hữu ngạn có Quartier de Chaillot, Champs Élysées, Quartier des
Tuileries, Quartier de l’Opéra, Beaubourg et Les Halles, Le Marais và
Montmartre.
Hai bờ tả ngạn và hữu ngạn sông Serine
Lướt nước sông Seine
Nước
sông Seine không cuồn cuộn như sông Danube, dòng sông xanh của các
thành phố Vienna và Budapest. Nước sông Seine bình thản từ cội nguồn
chảy ra biển cả, đem quá khứ đổ vào tương lai, mang tình yêu lấp tràn
thù hận. Từ khi biết đến con người, dòng sông này chứng kiến biết bao
tranh chấp nhưng thiên chức của nó dường như chỉ để xoa dịu nỗi đau và
lắng nghe những lời ngọt ngào của những người yêu nhau từ ngàn xưa cho
đến ngàn sau, những khách bộ hành bình thường tản bộ trên hai bờ nước.
Sông Seine của Paris chính vì vậy là dòng sông của tình yêu, dòng sông
của những người biết hưởng hạnh phúc.
Guillaume Apollinaire, nhà thơ nổi tiếng của Pháp đầu thế kỷ 20, đứng trên cầu Mirabeau nhìn nước sông Seine nhớ lại cuộc tình :
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut-il qu’il m’en souvienne
La joie venait toujours après la peine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure…
Dưới cầu Mirabeau nước sông Seine vẫn chảy
Và cuộc tình của chúng ta
Có cần phải được gợi nhớ
Niềm vui thường đến sau nỗi đau
Đêm đã đến giờ đã điểm
Tháng ngày cứ qua đi tôi một mình ở lại…
(Guillaume Apollinaire, Le pont Mirabeau, Alcools, 1914)
Nguyên Sa khi xa vắng người yêu cũng thường hay tự hỏi :
Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một dòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em ?…
Paris có gì lạ không em ? – Thơ Nguyên Sa – Nhạc Ngô Thụy Miên – Tiếng hát Thái Thanh
Phạm Trọng Cầu cũng thế, anh trút nỗi nhớ vào từng cung nhạc :
Từ chia ly nghe rơi bao lá vàng
Ngập dòng nước sông Seine
Mưa rơi trên phím đàn
Chừng nào cho tôi quên…
Mùa thu không trở lại – Nhạc và lời Phạm Trọng Cầu – Tiếng hát Thái Thanh
Nhưng
sông Seine không chỉ là dòng sông của những chuyện tình, nó còn là dòng
sông lịch sử tạo ra thành phố Paris. Chưa một thành phố lớn nào tại
Châu Âu gắn liền số phận của mình với một dòng sông như Paris. Từ ngày
thành lập đến nay, tất cả những công trình kiến trúc mỹ thuật danh tiếng
của Paris đều được xây dựng dọc hai bờ sông Seine. Mọi khoảng cách, số
nhà và sinh hoạt của thành phố đều tính từ dòng sông Seine trở ra. Người
Parisien, mỗi khi được hỏi, thường xác định vị trí cư ngụ theo hai bờ
sông Seine (tả ngạn hay hữu ngạn). Gắn liền số phận với một dòng sông,
tính tình người Paris cũng như dòng nước, luôn luôn dao động, sẵn sàng
xuống đường chống đối, nhưng rất bộc trực và hồn nhiên : khi buồn thì
khóc, khi vui thì cười.
Sông
Seine chia Paris ra làm hai phần rõ rệt. Khu vực hữu ngạn phía Bắc dành
cho những sinh hoạt vật chất (buôn bán, ăn chơi, giải trí). Khu vực tả
ngạn phía Nam, hình dành cho những sinh hoạt tinh thần (các trường đại
học, các viện bảo tàng, nơi cư ngụ của văn nghệ sĩ). Về lịch sử, khu vực
phía Đông còn giữ lại nhiều dấu ấn của thời kỳ thành lập, khu vực phía
Tây gắn liền với những công trình kiến trúc của thời hoàng kim thế kỷ 18
và 19. Ngoại ô phía Tây là nơi cư ngụ của giới quí tộc và những gia
đình giàu có ; ngoại ô phía Đông là nơi cư ngụ của những người mới đến
nhập cư ; ngoại ô phía Bắc là khu lao động và ngoại ô phía Nam là nơi cư
ngụ của giới khoa bảng. Dí dỏm hơn, về hình dáng, sông Seine trong
thành phố Paris giống chiếc boomerang của thổ dân Úc, khu vực hữu ngạn
hình chiếc bánh croissant và khu vực tả ngạn hình chiếc bánh xèo.
Lướt
nước sông Seine phải đi bằng thuyền, ban ngày ngắm nhìn thắng cảnh hai
bên bờ, buổi chiều ăn tối trên những nhà hàng du thuyền di động. Ăn tối
trên sông những ngày cuối thu và mùa đông rất là thơ mộng, bên trong ấm
cúng với tiếng nhạc, bên ngoài rực rỡ ánh sáng đèn màu, du khách khó có
thể quên một khung cảnh thần tiên trong đời.
Vào
cuối thế kỷ 19 du khách du ngoạn trên sông Seine bằng péniche (xà lan),
một loại tàu đường sông có thể chuyên chở người và vật dụng nặng. Ngày
nay các loại tàu này được trang hoàng đẹp hơn, chở đông người hơn và
tiện nghi hơn nên gọi là “vedette” (du thuyền). Ban đêm các vedettes này
được trang bị những đèn pha cực mạnh chiếu sáng hai bên bờ để du khách
quan sát nét đẹp Pparis by night trên sông. Vào mùa hè, từ trưa tới
chiều du khách có thể nhìn những thiếu nữ xinh đẹp của Paris phơi mình
dưới nắng ấm dọc hai bờ sông.
Loại
du thuyền chở khách trên sông Seine gọi là bateaux-mouches (“tàu ruồi”
như nhiều người Việt thường dịch nghĩa). Thực ra tên loại tàu này là cả
một huyền thoại. Vào nửa cuối thế kỷ 19, sau khi được nam tước Haussmann
chỉnh trang lại thông thoáng hơn trước, với những đại lộ rộng thênh
thang và kiến trúc tân kỳ, Paris trở thành thành phố ánh sáng thu hút
khách du lịch từ khắp Châu Âu đến viếng thăm. Để thưởng ngoạn những kiến
trúc độc đáo của thành phố, khách phải đi bằng du thuyền mới có thể
ngắm nhìn trọn vẹn những cảnh đẹp của Paris. Một thương nhân tên Jean
Bruel mua lại tất cả tàu thuyền tham dự cuộc triễn lãm toàn cầu
(Exposition universelle) năm 1867 để sau đó đem về xưởng đóng những tàu
thuyền này tại Lyon để tân trang lại. Viên giám đốc phân xưởng này tên
Michel Félizat đặt tên cho loại này la “Bateaux Mouche”, vì được tu sửa
trong một phân xưởng mang tên Mouche. Nhưng để thương mại hóa, doanh
nhân Jean Bruel thêm chữ “s” vào chữ Mouche để thành một danh từ chung
(vì Mouche là tên người nên không thể thêm chữ “s”), và đăng ký nhãn
hiệu cầu chứng “Bateaux Mouches”. Để thu hút sự tò mò của du khách, ngày
1/4/1953 Jean Bruel cho dựng tượng một người không có thật, mang tên
Jean-Sébastien Mouche, như là người đã sáng chế ra ngành du lịch đường
sông bằng những du thuyền trên sông Seine. Ngày nay công ty Bateaux
Mouches không còn độc quyền như trước .
Luật
di chuyển trên sông khác luật đường bộ. Tàu trên sông Seine bắt đầu từ
Tây sang Đông, lượt đi bên tay phải (hữu ngạn) và lượt về bên tay trái
(tả ngạn) dựa theo luật đường sông bên Anh. Các hãng tàu thường tập
trung cạnh chân Tháp Eiffel với những tên : Bateaux Parisiens,
Bateaux-Mouches, Batobus, Vedettes du Pont Neuf, Île de France… Ngoài
ra còn có hãng Canauxrama và Paris-Canal chuyên chở khách du ngoạn trên
những con kinh đẹp không kém sông Seine trong và ngoại thành Paris như
Canal Saint-Martin, Canal de l’Ourcq. Canal de l’Ourcq dài 108 km phía
Đông Bắc vào thẳng Paris và đổi tên thành kinh Saint Martin, quận 10.
Thành
phố Paris có tổng cộng 339 cầu đủ loại, trong đó 37 cầu bắc ngang sông
Seine : 35 chiếc cầu lớn (ponts) và cầu treo nhỏ (passerelles) dành
riêng cho xe cộ và khách bộ hành, 2 cầu được dùng riêng cho xe lửa điện
(métro).
Du
ngoạn trên sông Seine là dịp để ngắm nhìn những cây cầu bắc ngang với
những kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Mặc dù được xây dựng từ rất lâu,
những cây cầu này ngày nay vẫn còn kiên cố ; mỗi chiếc cầu là một tác
phẩm nghệ thuật đánh dấu từng giai đoạn chuyển mình của Paris.
Phía
Tây Nam có cầu Garigliano và Mirabeau, nơi thi sĩ Apollinaire đứng nhìn
dòng nước luyến nhớ chuyện tình đã qua, nằm giữa hai quận 15 và 16.
Phía Đông Nam có các cầu National, Tolbiac, Bercy, Charles de Gaulle và
Austerlitz phân ranh hai quận 12 và 13. Đây là những chiếc cầu mà thuyền
chở khách du ngoạn không đến.
Các
loại bateaux-mouches, tùy theo hãng tàu, bắt đầu từ cầu Grenelle, chạy
dọc tả ngạn sau đó quay sang hữu ngạn để trở về điểm xuất phát.
Dưới
chân cầu Grenelle là tượng Nữ Thần Tự Do, y hệt bức tượng được dựng
trước cửa biển New York nhưng nhỏ hơn (bằng 1/10), mặt hướng ra cửa biển
nhìn về New York, trong khi bức tượng chính tại New York mặt hướng về
nước Pháp. Dọc bờ hữu ngạn là Maison de la Radio (Đài Phát Thanh Pháp), ở
giữa dòng sông là một mô đất dài rợp bóng cây, nơi dân Parisien chạy bộ
và dạo mát, nối liền hai cầu Grenelle và Bir Hakeim. Giữa cầu Bir
Hakeim có một tượng đài bằng đồng hình một kỵ sĩ cưỡi ngựa tượng trưng
cho nghệ thuật điêu khắc thời Phục Hưng.
Bên cạnh cầu Grenelle là tượng Nữ Thần Tự Do, y hệt bức tượng được dựng trước cửa biển New York nhưng nhỏ hơn (bằng 1/10)
Xa
hơn một chút là cầu Iéna nối liền tháp Eiffel với Trocadéro và Palais
de Chaillot, nơi có bốn viện bảo tàng (dinh thự quốc gia, con người,
điện ảnh và hàng hải) và một thư viện điện ảnh. Đây là chiếc cầu được
đông khách bộ hành qua lại nhất thế giới, vì mỗi năm có hơn 30 triệu
lượt người qua lại viếng thăm tháp Eiffel và Palais de Chaillot để chụp
ảnh.
Cách
cầu Iéna không xa về phía Đông, được Napoléon I xây năm 1806, là một
chiếc cầu nhỏ bắc ngang sông gọi là Passerelle de Billy, chỉ dùng cho
khách bộ hành.
Dưới
chân cầu Alma là tượng một người lính zouave (lính đánh bộ tại
Algérie), dùng để đo mực nước sông Seine. Trên bờ tả ngạn là ngọn đuốc
tự do tưởng nhớ những người kháng chiến Pháp trong thế chiến II, không
lấy gì làm đẹp nhưng mỗi ngày có rất đông người đến truy niệm vì là nơi
quận chúa Diana tử nạn xe hơi năm 1997.
Dưới chân cầu Alma là tượng một người lính zouave (lính đánh bộ tại Algérie), dùng để đo mực nước sông Seine.
Cầu
Invalides không có gì đặc sắc bên cạnh cầu Alexandre III, chiếc cầu
lộng lẫy nhất Paris nếu không muốn nói là đẹp nhất thế giới. Năm 1886
hoàng đế Alexandre III (thân phụ của hoàng đế Nicolas II bị quân
bolchevik Nga giết năm 1918) đặt viên đá đầu tiên xây dựng chân cầu để
tổ chức cuộc triển lãm toàn cầu năm 1900. Cầu Alexandre III, nối liền
điện Invalides bên tả ngạn với Grand Palais bên hữu ngạn, được dựng trên
một cột sắt với những thân hình tiên nữ khỏa thân cùng những thỷy quái ;
trên chóp bốn trụ cầu là bốn tượng mạ vàng rực rỡ tôn vinh Khoa học,
Nghệ thuật, Thương Mại và Kỹ nghệ, đó là chưa kể dọc thân cầu là những
trụ đèn chạm khắc rất công phu và mỹ thuật.
Cầu Alexandre III là chiếc cầu lộng lẫy nhất Paris nếu không muốn nói là đẹp nhất thế giới
Hai
bên cầu Concorde là quảng trường Concorde với một bia đá Ai Cập cao lớn
(do Napoléon I mang từ Ai Cập về) cùng một bánh xe khổng lồ cao 60 m
đưa du khách lên ngắn nhìn Paris và khách sạn Grignon nổi tiếng, nơi cư
ngụ của các tài tử và nghệ sĩ quốc tế đến Paris lưu diễn, trên bờ hữu
ngạn, bên kia bờ tả ngạn là tòa nhà Quốc Hội, Assemblée nationale.
Passerelle
Solférino nối liền vườn Tuileries bên hữu ngạn với bảo tàng viện
d’Orsay bên tả ngạn dành cho khách bộ hành. Nhìn tháp Eiffel từ cây cầu
này, cảnh quang rất đẹp.
Các
cầu Royal và Carousel không có gì đặc sắc so với các cầu vừa kể nhưng
nếu so với các cây khác tại các quốc gia Châu Âu, đó là những công trình
mỹ thuật và kỹ thuật cao vào thế kỷ 17 và 18. Hai cây cầu này nối liền
khu vực hoàng gia trước kia, nay là bảo tàng Louvres, với khu vực nghệ
sĩ (Saint Germain des Prés).
Pont
des Arts là chiếc cầu đầu tiên hoàn toàn được xây dựng bằng kim loại
“gang” (fonte – sắt nung) tại Paris năm 1804. Kỹ thuật xây dựng mới này
làm đảo lộn tất cả kỹ thuật kiến trúc cổ điển (bằng đá tảng và vôi)
trước đây và là tiền thân của cách xây dựng loại nhà chọc trời và tháp
Eiffel.
Đi
quanh đảo Cité và Saint Louis thì các tàu chở khách đi ngược lại, lượt
đi bên tay trái và lượt về sang tay phải, và tuần tự lướt dưới các cầu
Pont Neuf, Pont de Sully, Pont de la Tournelle, Pont de l’Archevêché,
Pont au Double, Petit Pont ở tả ngạn để sau đó quay về hữu ngạn với Pont
Neuf, Pont au Change, Pont Notre Dame, Pont d’Arcole, Pont Louis
Philippe, Pont Marie, rồi trở về với các cầu đã đi qua.
Pont
Neuf là chiếc cầu lâu đời nhất Paris, được vua Henri III đặt viên đá
đầu tiên năm 1578 và do vua Henri IV khánh thành năm 1607. Cầu này dài
275 m, 12 nhịp, nối liền đảo Cité với hai bờ sông. Vào thời đó, đây là
một cuộc cách mạng về kỹ thuật xây dựng cầu vì không có nhà cửa xây dựng
ngay trên cầu giúp sự qua lại trên sông và hai bờ được dễ dàng.
Pont
de Sully có một lịch sử khá đặc biệt. Theo lệnh vua Henri IV và do bộ
trưởng Sully thực hiện, cây cầu này thay hai chiếc cầu gỗ cũ, quá mục
nát và lần lượt bị sập năm 1848 và 1872, gồm hai cầu bằng sắt (159 m và
82 m) nhưng kiến trúc rất nhau nhìn xa tưởng như một, được xây dựng từ
1875 đến 1876, nhằm nối liền hai bờ sông. Từ cây cầu này nhìn phía sau
Nhà Thờ Đức Bà, cảnh quang rất tuyệt.
Dọc
bờ tả ngạn là Quai Saint Bernard, nằm giữa hai chiếc cầu Sully và
Austerlitz. Bến này trước kia là một cánh cửa lớn (đại môn) được xây
dựng dưới thời vua Louis XIV (1643-1715) nhằm ngăn cản dân chúng đến đây
tắm giặt, sau đó bị đập bỏ năm 1787 để trở thành nơi dạo mát của dân
Parisien, dài gần một cây số, với tên gọi mới là Bến Saint Bernard. Từ
1975 đến 1980, bến này mang tên là vườn Tino Rossi (một ca sĩ nổi
tiếng), và từ 1980 trở đi được biến thành một viện bảo tàng điêu khắc
ngoài trời với những tác phẩm nổi tiếng bằng đá và bằng thau được sáng
tác vào giữa thế kỷ 20. Nhưng rất tiếc là một số thành phần bất hảo đã
đến xịt vẽ (tag) trên các bức tượng buộc chính quyền thành phố Paris
mang phần lớn những tác phẩm nhỏ đi nơi khác, hiện nay chỉ còn lại những
tác phẩm lớn, kềnh càng bằng kim loại triển lãm trên bến.
Île de la Cité và Île Saint Louis (quận 1 và 4)
Lịch
sử hòn đảo nhỏ nằm giữa dòng sông Seine này, Île de la Cité gắn liền
với lịch sử thành lập thành phố Paris. Vào khoảng thế kỷ thứ tư trước
công nguyên, một bộ tộc Gaulois gốc Celte, người Parisii, đã đến đây lập
nghiệp và dựng một ngôi làng thô sơ trên hòn đảo này để tránh thú dữ và
sinh sống bằng nghề trồng trọt và săn bắt cá. Vị trí ngôi làng này trở
nên quan trọng trong suốt ba thế kỷ trước công nguyên khi lượng hàng hóa
giao lưu giữa lục địa (nông phẩm của người Gaulois) với bờ biển (hải
sản của người Celte) gia tăng. Năm 52 trước công nguyên, Labienus, chỉ
huy trưởng quân đội La Mã vùng Bắc xứ Gaule (Pháp), đánh bại quân
Gaulois tại Camulgène, cạnh Île de France ; dân Parisii phải đốt làng bỏ
chạy. Kể từ đó người La Mã chiếm đóng Île de la Cité, kiểm soát sự qua
lại trên sông Seine và cải danh thành Lutecea (Lutèce). Từ đầu thế kỷ
thứ 2 sau công nguyên trở đi, người La Mã chọn hòn đảo này làm đại bản
doanh miền Bắc xứ Gaule vì vị trí chiến lược của nó. Họ bắt đầu xây dựng
dinh thự, đền đài, nhà cửa trên đảo và mở rộng đô thị sang bờ tả ngạn.
Với thời gian, Lutecea trở thành trung tâm chính trị và thương mại của
xứ Gaule La Mã (gallo-romain) trong 500 năm ; người Gaulois từ khắp nơi
đến đây dựng làng canh tác nông nghiệp trên bờ hữu ngạn. Năm 360, thống
đốc La Mã xứ Gaule, Julien, tự xưng hoàng đế, chọn Lutecea làm đế đô và
đổi tên thành Paris (tiếng La Mã là Parisius). Sự phồn vinh của hòn đảo
nhỏ này tỏa rộng khắp nơi ; từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 5 Paris thường xuyên
bị quân cướp từ khắp nơi tiến vào đánh phá.
Nhà thờ Đức Bà trên đảo Île de la Cité
Thời
gian sau đó người Francs, rồi người Capétiens thay nhau làm chỷ Paris,
mỗi lần thay ngôi đổi chủ là xây thêm nhiều dinh thự mới ; Île de la
Cité vẫn duy trì vị trí trung tâm và nhiều công sự phòng thủ mới được
tăng cường quanh đảo. Phải chờ đến thời kỳ Trung Cổ (thế kỷ 6-thế kỷ
15), những công trình kiến trúc kiên cố và mỹ thuật mới được dựng lên
trên đảo và còn tồn tại cho tới ngày nay.
Diện
tích hòn đảo này rất nhỏ (20 hecta), thuộc hai quận 1 và 4, đường sá
chật hẹp và ngoằn nghèo, do đó khi viếng thăm phải dùng đôi chân. Một số
tên đường trên đảo được giữ nguyên từ thời Trung Cổ, như Quai des
Orfèvres (bến thợ kim hoàng), Quai du Marché Neuf (bến chợ mới). Có chín
cây cầu bắc ngang qua đảo : Pont Neuf (xưa nhất, xây dựng năm 1578)
băng ngang qua phần đất nhỏ hẹp ở đầu hòn đảo, nối liền hai bờ sông
Seine ; cầu Saint Louis nối liền hai đảo (Île de la Cité và Île Saint
Louis) với nhau ; các cầu Archevêché, Cầu Đôi (Pont au Double), Cầu Nhỏ
(Petit Pont) và cầu Saint Michel nối liền Đảo Thị Trấn với bờ tả ngạn ;
các cầu Arcole, Notre Dame và Pont au Change nối liền với bờ hữu ngạn.
Những di tích được thăm viếng nhiều nhất là Nhà thờ Đắc Bà (Notre Dame
de Paris), Sainte Chapelle, Palais de Justice và Conciergerie.
Ở
đầu hòn đảo về phía Tây là công viên Square du Vert Galant, trước cầu
Pont Neuf. Đây là một trong những nơi huyền bí nhất của Paris vì, theo
lời kể lại, sau nhiều lần muốn tiến về Paris nhưng không vào được thành
vua Henri IV hứa sẽ dành một khu đẹp đẽ để tạ Ơn Trên. Được toại nguyện,
nhà vua đã chọn phía đầu hòn Đảo Thị Trấn làm một công viên đầy bóng
mát và đặt tên là Vert Galant (biệt danh của Henri IV). Về sau để nhớ ơn
nhà vua, một tượng vua Henri IV cưỡi ngựa bằng đồng được dựng ở giữa
công viên, từ nơi đây có thể nhìn về bảo tàng Louvre, vườn Tuileries và
cảnh vật trên hữu ngạn sông Seine. Từ đó những người ước muốn điều gì
trọng đại đều âm thầm đến đây cầu xin. Nơi đây cũng là bến xuất phát các
tàu đi trên sông du ngoạn.
Sau
khi khánh thành xong công viên Vert Galant và cầu Pont Neuf, năm 1607
vua Henri IV xây thêm một quảng trường khác ở đầu hòn đảo về phía Đông,
Place Dauphine, để tặng con trai ông, vua Louis XIII. Nơi này hiện nay
là nơi tụ tập của những người chơi đánh boule vào mỗi cuối tuần, cuối
ngày và ngày lễ.
La
Sainte Chapelle (4 Boulevard du Palais, quận 1) là ngôi giáo đường xưa
nhất Paris, được xây năm 1246, dùng để bảo tồn chiếc mũ gai của chúa
Jesus và một mảnh gỗ lấy từ cây thánh giá treo Jesus. Ngôi giáo đường
này là một trong những tuyệt tác kiến trúc của thời Trung Cổ phương Tây,
nội tất được chiếu sáng bởi 15 mảnh kiếng màu, chôn khéo léo trong bốn
vách tường, với 1.000 hoạt cảnh trong kinh thánh.
La
Conciergerie (1 Quai de l’Horloge, quận 1), nằm đối diện với bờ hữu
ngạn, là một dãy nhà to lớn được xây cất vào giữa thế kỷ 14, được dùng
làm nhà tù đầu tiên của thành phố Paris năm 1391. Trong cuộc Cách Mạng
Pháp 1789, 2.780 người đã bị xử trảm (bằng máy chém đầu guillotine)
trong nhà tù này, trong đó có cả những người đã khởi xướng cuộc cách
mạng như Danton, Saint Just, Desmoulin… Du khách có thể viếng thăm
những phòng giam được tái tạo lại để tưởng tượng tâm trạng những người
chờ bị chém đầu, nhất là những phụ nữ nổi tiếng như hoàng hậu
Marie-Antoinette (vợ vua Louis XVI), bà Charlotte Corday (người đã đâm
Marat, người sáng lập tờ báo cách mạng Ami du Peuple). Phòng giam bà
Marie-Antoinette sau đó được sửa sang lại thành một giáo đường theo
nguyện ước của em chồng bà là vua Louis XVIII.
Le
Palais de la Justice (Tòa án Paris, 4 Boulevard du Palais, quận 1), là
một dãy nhà đồ sộ cạnh giáo đường Sainte Chapelle, đối diện với bờ tả
ngạn. Dưới thời La Mã, tòa nhà này được dùng làm nơi xử các phạm nhân và
được các vua chúa Pháp thời Trung Cổ dùng làm tòa án cho tới thế kỷ 14.
Năm 1793 những lãnh tụ cuộc cách mạng Pháp dùng làm nới xử những đối
thủ của mình, các tội nhân sau đó bị giam vào La Conciergerie chờ bị xử
trảm.
Sở
cảnh sát Paris (Préfecture de Police) nằm trên Boulevard du Palais và
Quai du Marché Neuf, quận 1) nằm đối diện với tòa án. Đây là một khu nhà
có cùng thời với Palais de Justice được sử dụng trước đó như nơi cư trú
của lực lượng an ninh thời La Mã và của các vua chúa. Dưới thời cách
mạng Pháp, đây là cơ quan điều tra rất là nghiệt ngã để triệt hạ những
người chống đối. Ngày nay cơ quan này là nơi đặt văn phòng của Sở cảnh
sát Paris.
Đối
diện với bờ hữu ngạn là một bệnh viện to lớn và khá lâu đời. Bệnh viện
này trước kia là một cô nhi viên, con cháu những người bị hành quyết
dưới thời cách mạng, mang tên Hôtel Dieu (Khách sạn của Chúa, ý trêu
chọc những người đã bị hành quyết và con cái của họ, bị gom vào đây coi
như là vào nhà của Chúa sau khi chết). Đến thời hoàng đế Napoléon III,
theo chương trình chỉnh trang đô thị của nam tước Haussmann, cô nhi viện
này bị đập bỏ để xây dựng lại thành một bệnh viện, công trình xây cất
từ 1866 đền 1878 mới xong, với tên gọi Hôpital Hôtel Dieu (1, Place du
Parvis de Notre Dame, quận 1). Bên cạnh bệnh viện này là chợ bán bông và
chim, Marché aux fleurs et Marché aux oiseaux (Place Louis Lépine, quận
1).
Nhà thờ Đức Bà Paris (trước khi bị hỏa hoạn ngày 15/4/2019, hiện đang được phục hồi y như cũ và sẽ ra mắt trước cuối năm 2025)
Đối
diện với bờ tả ngạn là La Cathédrale Notre Dame de Paris (Place du
Parvis de Notre Dame, quận 4). Nhà Thờ Đức Bà Paris được hoàn tất năm
1330, sau hơn 170 năm xây dựng, do giáo hoàng Alexandre III đặt viên đá
đầu tiên năm 1163. Thánh đường này là một công trình kiến trúc đồ sộ
thời Trung Cổ, kiểu gothic, dài 130 m, rộng 60 m, với hai tháp chuông
mỗi cái cao 69 m và một tháp nhọn cao 90 m ở giữa, được UNESCO công nhận
là tài sản của nhân loại. Mỗi đường nét kiến trúc, mỗi vật dụng trang
trí trong và ngoài thánh đường là một đề tài nghiên cứu phong phú đầy lý
thú. Sự đồ sộ và huyền bí của Notre Dame còn là nguồn cảm hứng của rất
nhiều truyện kịch, nổi tiếng nhất là Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà (1831) của
Victor Hugo, sau này được tổ hợp Walt Disney viết thành phim hoạt họa.
Năm 1804 hoàng đế Napoléon thụ sắc, năm 1970 đám tang của cố tổng thống
de Gaulle được tổ chức trong thánh đường này.
Notre Dame de Paris – Belle
Notre
Dame được xây dựng trên một ngôi đền cổ của người La Mã có từ thế kỷ
thứ 3, dưới thềm Parvis (phần đất dùng làm sân trước thánh đường) là
những đường sá và nhà cửa thời gallo-romain. Bảo tàng viện Notre Dame,
cạnh giáo đường, trưng bày những vật dụng gallo-romain thu nhặt được
trong các cuộc đào bới khảo cổ : dấu tích xưa nhất của đạo Công Giáo tại
đây là một chén rượu bằng thủy tinh cách đây 1.600 năm. Trên Parvis là
tấm biển ghi cây số 0, nơi xuất phát mọi khoảng cách từ các tỉnh vào
Paris hay ngược lại, và cũng là nơi chim bồ câu tụ tập chờ khách cho ăn
bánh mì khô… trên tay.
Phần
đất phía sau Notre Dame là một khu vườn nhỏ, Square Jean-XXIII, tươm
tất và sạch sẽ, được dùng làm nơi nghỉ chân và hóng gió sông. Ở cuối hòn
đảo là Đài tưởng niệm những người hy sinh và bị đày dưới thời Đức quốc
xã (gần 200.000 người bị thiệt mạng), nơi đây chôn cất xác một nạn nhân
đi đày vô danh. Một khu vực trang nghiêm cần được tôn trọng.
Toàn cành Ile de la Cité và Ile de Saint Louis nhìn từ trên không – Ảnh minh họa
Île
Saint Louis thuộc quận 4 là một ụ đất nổi lên giữa sông Seine, cạnh đảo
Cité, rộng 4 hecta. Hòn đảo nhỏ này được nối liền với hai khu vực tả và
hữu ngạn bởi năm cây cầu : Pont Saint Louis (đã nói ở phần trên) ; Pont
de Sully nối liền hai bờ sông Seine ; Pont de La Tournelle nối liền khu
vực tả ngạn ; Pont Louis Philippe và Pont Marie nối liền khu vực hữu
ngạn. Người Celte, La Mã, Gaulois và Francs trước kia sử dụng ụ đất này
như một khu vực trồng trọt và chăn nuôi. Đến giữa thế kỷ 17, khi dân số
Paris lên cao, kiến trúc sư Louis Le Vau được giao xây dựng một khu nhà ở
sang trọng, từ đó ụ đất này mang tên thánh vị vua sáng lập (Louis XIV)
và trở thành một hòn đảo thơ mộng, nơi cư ngụ của những người giàu có và
tiếng tăm, với những con đường nhỏ một chiều. Khách sạn de Lauzun được
Le Vau xây dựng năm 1656 cho Charles Gruyn des Bordes, một nhà buôn bán
súng đạn giàu có, sau đó bán lại cho công tước Lauzun năm 1682, cho bá
tước de Pimodan năm 1779, rồi cho nhà sưu tầm sách quí Jérôme Pichon năm
1842, và từ 1928 đến nay là tài sản của thành phố Paris ; ngôi nhà này
đã đón nhận những văn nghệ sĩ tên tuổi như Charles Beaudelaire,
Théophile Gautier, Rainer Maria Rilke, Walter Sicker, Richard Wagner…
Ngoài ra còn có bảo tàng Adam Mickievicz, một người Ba Lan sinh sống tại
Paris vào thế kỷ 19, được con của ông thành lập năm 1903, lưu trữ những
tác phẩm văn hóa, nghệ thuật và chính trị của cộng đồng người Ba Lan tị
nạn.
Nguyễn Văn Huy
(31/07/2024)