I. Thời quân chủ
Thật khó xác định được cái mốc thời gian chính xác để biết rõ người Hoa đã đến Việt Nam từ năm nào, nhưng sự hiện diện của họ trên mảnh đất này đã được ghi nhận cách đây trên hai ngàn năm.
A. Dưới thời Bắc thuộc
Vào thế kỷ thứ hai trước công nguyên (năm – 111), người Hoa (nhà Hán) đã sát nhập Việt Nam (thời đó là Nam Việt) vào miền Nam Trung Hoa, đặt tên là Giao Chỉ Bộ và đã cai trị hơn một ngàn năm. Nhiều thương nhân, sĩ phu, học trò và người tị nạn chính trị đã di cư xuống phía nam lập nghiệp, nhất là trong những giai đoạn khủng hoảng chính trị lớn tại Trung Hoa. Thời đó đối với nhà Hán, Giao Chỉ là vùng đất để trấn man và lưu đầy tội phạm. Những phạm nhân này buộc phải sống hòa đồng với những nhóm dân cư bản địa, đã lập gia đình và đã định cư vĩnh viễn.

Trong suốt thời Bắc thuộc, nhiều tu sĩ Phật giáo Trung Hoa đã đến Việt Nam truyền đạo, xây dựng chùa chiền và đã giáo hóa được một số lưu dân gốc Hoa và dân cư bản địa theo Phật pháp. Không có tài liệu nào nói rõ đã có bao nhiêu người Hoa hội nhập hoàn toàn vào đời sống và xã hội Việt Nam, vì Giao Chỉ Bộ (sau này là Giao Châu) trong giai đoạn này là một phần lãnh thổ của nhà Hán, do đó không có vấn đề phân biệt.
Ranh giới phân chia lãnh thổ giữa hai phần đất cũng chưa định vị một cách rõ ràng. Người ta chỉ dựa vào các chướng ngại thiên nhiên như sông núi, bờ biển để xác định khu vực cư ngụ. Tại phía Bắc, ranh giới giữa các tỉnh của quận Nam Hải (Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông) và miền thượng du Giao Châu là dãy Bắc Sơn. Ở những vùng ven biển, các quan trấn thủ nhà Hán dựa vào những hòn đảo và eo biển thiên nhiên để phân chia lãnh hải với đất Giao Chỉ. Qui chế công dân chỉ dựa vào quyền thổ cư, rất ít khi dựa vào quyền huyết thống. Người nào sinh trưởng nơi đâu quê hương là nơi đó, kể cả con cái của những lưu dân. Không có một cơ chế chuyên biệt nào được đặt ra để kiểm soát sự qua lại và di trú ở các chốt biên giới. Những toán binh sĩ dẫn độ tội phạm một khi đã giải giao cho các quan trấn thủ địa phương liền trở về ngay chính quốc lục địa. Sự canh phòng ở khu vực biên giới cũng không có, vì người Hoa không thể canh chừng người Hoa, do đó đã có một số dân cư sống gần biên địa qua lại canh tác hay trao đổi, sau đó cũng trở về quê quán cũ khi làm xong mùa hay buôn bán.
Sự kiện dân Giao Chỉ đánh lại nhà Hán được ghi nhận vào khoảng năm 40 trước công nguyên. Thái thú Tô Định nhà Hán giết ông Thi Sách vì nghi có âm mưu phản loạn. Để trả thù chồng, bà Trưng Trắc cùng em là bà Trưng Nhị kết nạp anh hùng hào kiệt nổi dậy đánh Tô Định, nhưng sự nổi dậy không kéo dài được lâu. Hán vương cử Mã Viện sang đánh dẹp, Hai Bà thua trận đã nhảy xuống sông Hát tự sát. Mã Viện rút quân về, tới vùng biên giới (?) cho dựng một cột đồng, trên có khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (trụ đồng bị đổ, Giao Chỉ bị diệt).
[Ý Mã Viện ở đây chỉ muốn khuyên dân Giao Chỉ hãy bảo vệ trụ đồng chứ không phải để răn đe người Giao Chỉ. Trong thời kỳ này, người Giao Chỉ đã gần như bị đồng hóa, gọi là người Kinh, nên được xem là thần dân của thiên quốc Bắc triều, do đó không có vấn đề thần dân của thiên quốc răn đe thần dân của thiên quốc. Ngược lại, những nhóm “phiên man” ở phía Nam, gốc hải đảo (Malayo Polynésien), không chịu tuân phục sự cai trị của nhà Hán chỉ chực chờ cơ hội đánh lại. Năm 112, một vương tôn gốc Hoa tên Khu Liên nổi lên giết quan cai trị nhà Hán, thành lập vương quốc Lâm Ấp, bao gồm một vùng đất rộng lớn phía nam quận Nhật Nam của tỉnh Giao Châu (hay Giao Chỉ Bộ), sau này được biết đến dưới tên quận Tượng Lâm.
Việc buôn bán cát đỏ (Châu sa) từ phía nam quận Tượng Lâm (Lâm Ấp) vào Trung Hoa rất thịnh đạt. Châu sa (mercure) là một chất xúc tác hóa học được dùng để lọc đãi vàng. Châu sa theo nhiều nhà nghiên cứu địa chất và khảo cổ chỉ có ở Cù Lao Chàm (Quảng Nam), trong khi ranh giới của địa phận Giao Chỉ thời đó chỉ tới dừng tại miền cực nam của quận Nhật Nam, tức Nghệ An ngày nay, điều này chứng tỏ việc giao thương tại vùng biên giới rất tự do. Người Hoa có thể đi xuống tận phía nam Giao Chỉ buôn bán tại các thương cảng Long Biên (sông Hồng) và Lạch Trường (sông Mã).
Cột đồng của Mã Viện do đó được nhiều người cho là ở phía nam tỉnh Thanh Hóa, biên thùy giữa quận Nhật Nam và đất Tượng Lâm (lãnh thổ vương quốc Lâm Ấp cũ), chứ không phải ở vùng Cao Bắc Lạng như nhiều người lầm tưởng].
Với những lượt ra vào của những nhóm người Hoa này, người Việt bản địa (Mường) đã học được rất nhiều điều hay, nhất là các mô hình thiết chế chính trị và văn hóa, cách trồng lúa nước, sự khéo tay trong công nghệ, nghề khai thác mỏ quặng. Sĩ Nhiếp (137-226), một thái thú nhà Hán có công rất nhiều trong việc mở mang và bảo vệ Giao Châu. Sĩ Nhiếp được nhiều nhà ngôn ngữ học cho là đã sáng chế ra chữ Nôm, mặc dù vậy chữ Nôm vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Chữ Hán vẫn là ngôn ngữ chính trong việc quản lý hành chánh và thông tin.
Trong thời Bắc thuộc, người Việt bản địa đã phản ứng rất mạnh mẽ trước chính sách đồng hóa của nhà Hán, nhờ đó đã giữ được phần nào bản sắc của nền văn minh bản địa (văn minh Đông Sơn). Nhưng cũng phải thành thật nhìn nhận bản sắc của dân tộc Việt thời đó chỉ khác với dân tộc Hán về địa lý. Đời sống dân cư bản địa thời đó còn quá lạc hậu so với người Hoa lục địa : chưa có chữ viết, chưa biết lễ nghĩa, chưa biết canh tác nông nghiệp kiểu định cư. Văn minh Đông Sơn không thể so sánh với văn minh Trung Hoa, mặc dù có nhiều nét đặc thù của các bộ tộc Lạc Việt (trống đồng, đồ gốm, nữ trang).
[Nhiều nhà nghiên cứu sử học cho rằng dân tộc Việt sở dĩ có tên là do những nhóm di dân của nước Việt từ Trung Hoa tràn xuống lập nghiệp. Những nhóm người này phổ biến cho dân cư bản địa văn minh và văn hóa Trung Hoa mà họ đã hấp thụ từ lục địa. Có thể nói dân cư bản địa ở sông Hồng đã thấm nhuần một phần văn minh, văn hóa Trung Hoa trước khi bị Bắc thuộc. Tổ chức xã hội của Việt Nam từ đời Hùng Vương trở về sau đều dựa theo khuôn mẫu Trung Hoa. Dân cư thời Hùng Vương được chia ra thành hai nhóm, nhóm người Kinh, tức những người được khai sáng bởi văn minh chữ Hán và biết tổ chức lối sống định cư (sau này được dùng để xác định bản thể người gốc Việt) và nhóm người Mường, muốn giữ gìn bản sắc độc lập vì không muốn bị đồng hóa bởi văn minh chữ Hán].
B. Thời kỳ độc lập
Người Hoa vẫn tiếp tục di cư xuống phía nam sau khi Ngô Quyền giành được độc lập năm 939. Những cuộc di dân có lúc đến hàng chục, hàng trăm người, nhưng không ồ ạt. Đa số là những người tị nạn chính trị, thương nhân có óc phiêu lưu và dân chúng nghèo khổ. Nhưng những người này không thể thành lập được một cộng đồng mạnh vì Việt Nam thời đó không phải là một vùng đất giàu có. Các triều chính Việt Nam cũng không đặt nặng vấn đề quốc tịch vì không cần thiết. Dân chúng giữa hai nước trao đổi hàng hóa dọc biên cương một cách dễ dàng, khi cần họ chỉ xác nhận bản thể qua ảnh hưởng của nền chính trị và hành chánh đương quyền để tự phân biệt lẫn nhau : nếu là người Hoa họ tự nhận là con dân các triều Ngô, Hán, Sở, Tống…, nếu là người Việt thì tự nhận là con dân các triều Ngô, Đinh, Lê, Trần… Người Việt thời đó có thể sử dụng thổ ngữ riêng để giao dịch với nhau nhưng về hành chánh ngôn ngữ trao đổi chính vẫn là tiếng Hoa và chữ Hán.
Đến đời nhà Lý (1010-1225), bắt đầu có sự phân biệt người Hoa với người Việt. Các làng xã vùng biên giới (tuy chưa rõ ràng) cứ bị phiến quân Trung Hoa ở các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây sang quấy nhiễu và cướp bóc. Sự kiện này là một cớ để năm 1075, vua Tống sai tể tướng Vương An Thạch mang quân đi dẹp loạn đồng thời thôn tính luôn nước Đại Cồ Việt. Biết trước ý đồ đó, Lý thường Kiệt cùng Tôn Đản mang quân đánh chiếm nhiều quận nhỏ ở hai tỉnh Quảng Đông (Châu Khâm và Châu Liêm) và Quảng Tây (Châu Ung) của nhà Tống. Ngược lại quân Tống cũng chiếm được nhiều quận của nhà Lý (Châu Quảng Nguyên, Châu Tư Lang tỉnh Cao Bằng và Châu Tô, Châu Mậu, Châu Quảng Lang tỉnh Lạng Sơn). Năm 1078, vua Lý Nhân Tông sai ông Đào Tôn Nguyên sang Trung Hoa cầu hòa, và năm 1084 cử ông Lê Văn Thịnh sang bàn việc phân chia địa giới.
[Sự kiện trên làm bốn câu thơ của Lý Thường Kiệt trở nên nổi tiếng và còn truyền tụng cho đến sau này mỗi khi Trung Hoa có ý đồ thôn tính Việt Nam :
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhử đẳng hành khan thủ bại hư”.
Ý muốn nói nước Nam đã có chủ quyền, ai xâm phạm đều sẽ bị đánh bại].
Năm 1285, một tướng Trung Hoa (nhà Tống) tên Triệu Trung cùng binh sĩ đến nước Nam (Đại Việt) xin tị nạn và tình nguyện tòng chinh đánh lại quân Nguyên (Mông Cổ). Triệu Trung cho binh sĩ giả mặc đồ giống như quân Tống xưa kia làm quân Nguyên từ Chiêm Thành tiến lên, do Toa Đô chỉ huy, hoảng sợ bỏ chạy vì tưởng nhà Tống đã khôi phục lại lục địa và cho quân sang hỗ trợ Đại Việt. Quân của nhà Trần và tướng Triệu Trung đuổi theo sát hại rất nhiều quân Mông Cổ và đã giữ vững mặt trận phía Nam (Thanh Hóa, Nghệ An) trong suốt cuộc chiến chống lại quân Nguyên xâm lược.
Năm 1400, một người gốc Hoa tên Lê Quí Ly, sau đổi là Hồ Quí Ly, lên làm vua nước Việt, đặt tên nước là Đại Ngu để tưởng nhớ tới quê hương cũ, vì họ Hồ thuộc dòng dõi nhà Ngu bên Trung Hoa. Nước Việt bị mất tên trong 7 năm, từ 1400 đến 1407. Hồ Quí Ly tuy có làm nhiều cải tổ về hành chánh và quản trị nhưng thành tích chính trị và quân sự của ông đối với nước Việt không có gì đặc sắc. Quân đội của nhà Hồ (theo sử sách ghi lại là rất đông) không chống cự lại quân Minh một trận nào. Những thành tựu của nhà Hồ đều bị nhà Minh (Trung Hoa) thâu đoạt hết : vàng bạc, đất đai, binh lực, sách vở và trí thức.
Vì cứ phải tập trung đối phó với những ý đồ xâm lấn của Trung Hoa (nhà Tống, nhà Nguyên và nhà Minh) một cách liên tục, thái độ của triều đình và dân chúng Việt Nam sau này đối với di dân, thương nhân Hoa kiều có phần thay đổi. Người Hoa, bị nghi kỵ, buộc phải sống tập trung tại một số nơi nhất định gần bờ biển hay vùng giáp ranh phía Đông Bắc. Họ có thể đảm nhiệm tất cả các ngành nghề về kinh doanh, y học và mô phạm (khai thác quặng mỏ, lập thương điếm tại các hải cảng, buôn muối, bán gạo, mở tiệm thuốc bắc, làm đồ sứ, dạy học…) nhưng không thể có vai trò chính trị. Tuy là những nghề tầm thường nhưng chúng chiếm lĩnh toàn bộ sinh hoạt của xã hội. Người Hoa gần như độc quyền buôn bán và vận chuyển muối gạo từ đồng bằng lên cao nguyên, rồi từ cao nguyên mang thịt rừng và lâm sản quí về đồng bằng, họ còn trực tiếp buôn bán với các thuyền buôn ngoại quốc đến Vịnh Bắc Phần (Vịnh Bắc Bộ) trao đổi. Biên giới phía Bắc Việt Nam thời đó là nơi trao đổi hàng hóa nhộn nhịp giữa dân cư hai nước. Một số nhỏ thương gia Hoa kiều đã định cư và mở thương điếm tại Thăng Long, quanh đảo Cát Bà và vùng ven duyên. Người Hoa cất phố lập chợ, làng đánh cá dọc bờ biển Quảng Ninh, và dần dần trở thành người cung cấp hàng hóa và lương thực chính thức cho dân cư toàn miền Bắc. Đa số người Hoa trong thời này xuất phát từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam.
Vịnh Bắc Phần là nơi tập trung những gia đình nghèo khó người Hoa từ các tỉnh ven duyên phía Nam Trung Hoa (Quảng Đông) đi thuyền vào lập nghiệp, sự di cư của những người này mang tính thời vụ và kinh tế chứ không mang tính chính trị. Một số đã lập gia đình với người địa phương và định cư vĩnh viễn. Những người khác sau khi làm ăn phát đạt thường trở về quê cũ sinh sống. Vịnh Bắc Phần là nơi chuyển vận hàng hóa của các đội thương thuyền và cũng là vùng tung hoành của những toán hải tặc gốc Hoa chuyên cướp bóc và thu tiền mãi lộ. Người Việt vì không có mộng viễn du nên không có xưởng đóng tàu chuyên chở lớn, việc vận chuyển hàng hóa ven duyên và viễn dương đều do người Hoa và người phương Tây phụ trách.
C. Thời Trịnh-Nguyễn
Sang thời Trịnh-Nguyễn (1620-1777), chiến tranh là ưu tư chính của các triều đình, mọi định chế xã hội ở hai miền đất nước đều được quân sự hóa. Dân chúng hai miền sống triền miên trong đói khổ vì hai chúa Trịnh-Nguyễn tập trung tất cả tài nguyên của đất nước phục vụ chiến tranh. Xã hội dân sự gần như bỏ ngỏ, nền kinh tế phó mặc cho thương nhân phương Tây và Trung Hoa phụ trách.
Sự chọn lựa cũng đã rõ ràng : chúa Trịnh nhờ người Hòa Lan giúp về quân sự, chúa Nguyễn cậy nhờ người Bồ Đào Nha. Người Hòa Lan và Bồ Đào Nha, về sau có thêm người Pháp cung cấp vũ khí và tiếp liệu quân sự ; thương nhân Trung Hoa cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho cả chúa Trịnh ở Đàng Ngoài lẫn chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Mặc cho dân tình đói khổ, hai nhóm thương nhân này khai thác và sống sung mãn với thị trường Việt Nam trong suốt hơn 150 năm.
Đàng Ngoài : hai nhóm người Hoa
Người Hoa định cư trong Vịnh Bắc Phần là nguồn cung cấp lương thực và hàng hóa cho xã hội Đàng Ngoài. Trong thời này, kiều dân Trung Hoa gần như độc quyền khai thác mỏ quặng, buôn bán muối gạo và vận chuyển lương thực. Nền kinh tế tại miền Bắc hoàn toàn nằm trong tay những người Hoa định cư tại đồng bằng sông Hồng và các tỉnh ven duyên.
Trước tình trạng khuynh loát về kinh tế của người Hoa, chúa Trịnh Giang (1729-1740) cải tổ lại việc buôn bán muối và khai thác khoáng sản bằng cách đánh thuế nặng và cấm phổ biến sách Hoa ngữ để hạn chế ảnh hưởng của người Hoa.
Khi nhà Thanh đánh bại nhà Minh (thế kỷ 17) thống trị toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa lục địa, nhiều cuộc di tản lớn đã xảy ra. Trong lục địa, các phong trào kháng chiến chống nhà Thanh liên tiếp bị đánh dẹp, một số tướng lãnh Minh triều cũ chạy xuống miền cực nam Trung Hoa dọc biên giới Việt-Hoa lánh nạn và thành lập phong trào kháng chiến lấy tên Thái Bình Thiên Quốc. Ngô Tam Quế (một vị tướng của nhà Minh) chạy về Sơn Hải Quan, vùng đất giữa Vân Nam và Quảng Tây, lập chiến khu chống lại triều đình nhà Thanh. Một phần dân chúng các tỉnh phía Nam Trung Hoa chạy vào các tỉnh phía Bắc Việt Nam (Cao Bắc Lạng) tị nạn.

Khu vực biên giới bắt đầu mất an ninh, trộm cướp hoành hành khắp nơi. Người Hoa sống trong những làng mạc gần vùng biên giới đều bị đặt dưới sự điều động của những tướng Minh triều cũ. Trong suốt hai thế kỷ 18 và 19, những nhóm binh tướng này thường tổ chức những cuộc tiến công vào các làng xã của người Việt cướp bóc lương thực và mang theo nhiều thanh niên thiếu nữ về sơn trại. Dân chúng thời đó rất sợ đám giặc này và gọi chúng là giặc Tàu Ô (ví chúng mặc áo trắng, quần đen và quấn khăng đen). Thêm vào đó nhà Thanh lại có ý đồ xâm chiếm Việt Nam, mượn cớ “phò Lê diệt Trịnh”, mang quân tiến chiếm nhiều làng xã dọc biên giới theo lời yêu cầu của con cháu nhà Mạc và nhà Lê.
Năm 1638, Mạc Kính Vũ (nhà Mạc) nhờ vua Trung Hoa (nhà Thanh) buộc chúa Trịnh trao Cao Bằng lại cho họ Mạc nhưng không thành. Kính Vũ liên kết với Ngô Tam Quế chiếm thành Cao Bằng rồi chống lại nhà Thanh. Khi Ngô Tam Quế giết Quế vương (vua nhà Minh đang sống lưu vong tại Vân Nam) ra hàng nhà Thanh, Mạc Kính Vũ mất đi thế mạnh nhưng vẫn trấn giữ được Cao Bằng. Năm 1667 Ngô Tam Quế chết, chúa Trịnh mang quân chiếm lại Cao Bằng, chấm dứt dòng vương họ Mạc.
Các chúa Trịnh đã nhiều lần xuất quân tấn công vào sào huyệt của quân cướp Trung Hoa ở vùng biên giới phía bắc, nhưng không thành công. Mỗi khi quân triều đình tiến công, chúng rút về bên kia biên giới trốn lánh. Quân Tàu Ô làm chủ vùng biên giới cho tới đầu thế kỷ 20 và chỉ chấm dứt sau khi quân Pháp hợp tác của quân nhà Mãn Thanh hành quân tiểu trừ.
Đàng Trong : thương cảng Hội An
Đầu thế kỷ 16, sau những đợt cấm và giết đạo tại Trung Hoa và Nhật Bản, nhiều người Hoa và Nhật phải chạy bằng đường biển xuống phía nam đến Đàng Trong xin tị nạn tôn giáo. Chúa Nguyễn Hoàng cho họ định cư tại Hội An (Faifo), lúc đó chỉ là một làng đánh cá nhỏ. Tại Đàng Ngoài, chúa Trịnh thi hành chính sách giết và cấm đạo công giáo gắt gao, nhiều giáo sĩ phương Tây đã phải chạy vào Hội An xin tá túc. Các nhóm tị nạn này đã xây dựng lại Hội An thành một thành phố truyền đạo và một hải cảng sầm uất. Từ đó Hội An được nhiều thương nhân phương Tây đến xin lập thương điếm.
Tại Hội An, người Hoa và Nhật có dân số đông nhất, kế đến là người Hòa Lan và Bồ Đào Nha, sau cùng mới đến người Việt. Càng về sau người Việt đến định cư ngày càng đông, vì động cơ kinh tế và tôn giáo. Các giáo sĩ phương Tây cũng tìm đến giảng đạo và thu nhận nhiều tín đồ, trong đó có người Việt, người Hoa và người Nhật. Giáo hội công giáo đầu tiên được thành lập năm 1659 tại Đàng Trong (Hội An-Quảng Nam), sau mới ra Đàng Ngoài (Phố Hiến-Hưng Yên). Những người Hoa làm việc với các giáo sĩ phương Tây, một số đã theo đạo công giáo. Nhiều nhà thờ với lối kiến trúc Trung Hoa [đa số bị đốt sau những đợt cấm giết đạo thời Nguyễn sơ, rất nhiều người gốc Hoa đã tử vì đạo] được xây dựng. Bên cạnh đó, những nhóm ngữ phương gốc Hoa khác nhau cũng góp tiền xây dựng nhiều chùa chiền có giá trị nghệ thuật cao và còn tồn tại cho tới ngày nay.
Các chúa Nguyễn đã nhờ cậy cộng đồng người Hoa định cư tại Hội An rất nhiều, nhất là trong các dịch vụ làm trung gian trao đổi với phương Tây và Trung Hoa. Được biết đến nhiều nhất là cơ quan Tàu Vụ Ty (hải quan) tại Hội An do những viên chức người Hoa nhà Minh cũ (khoảng 400 người) được chúa Nguyễn tuyển dụng để làm công việc kiểm soát ngoại thương, thu thuế thương thuyền, làm thông ngôn cho thương nhân Trung Hoa và phương Tây đến trao đổi với triều chính Đàng Trong.
Vào thế kỷ 18, Hội An có 6.000 người Hoa. Nhiều người di cư đã phụ giúp chúa Nguyễn gây dựng cơ đồ và sống tập trung tại một làng nhỏ gần Huế, lấy tên là làng Minh Hương (để tưởng nhớ quê hương là nhà Minh). Từ đó dân chúng quen gọi những người Hoa này là người Minh Hương. Nhiều nhóm người Hoa khác, thần dân nhà Minh cũ, đến xin tị nạn và thành lập nhiều làng Minh Hương khác dọc các tỉnh ven duyên ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, v.v… Về sau, những người này được chúa Nguyễn cho tái định cư tại các tỉnh miền Đông và miền Tây với chủ đích thay triều đình khai thác và mở rộng bờ cõi phía Nam.
D. Khai phá Miền Đông
Đời sống dân cư dưới thời các chúa Nguyễn rất đói khổ. Năm 1695, Thích Đại Sán, một nhà sư gốc Quảng Đông đến Phú Xuân thuyết giáo có nhận xét về sự đói khổ của dân chúng Đàng Trong như sau : “Trong nước dân rất khổ, đất ruộng ít oi, lúa không đủ ăn. Dân một dải Thuận Hóa-Hội An đều sống nhờ lúa gạo các hạt khác”. Người Hoa tại Hội An phụ trách việc chuyên chở lúa gạo từ Đồng Nai, củi từ Tân Sài (Quảng Trị) vào Thuận Hóa nuôi sống dân cư và cung đình. [Sự đói khổ của dân chúng Thuận Hóa là tiền đề cho sự nổi dậy của Tây Sơn sau này].
Từ nửa đầu thế kỷ thứ 17, một số gia đình người Việt nghèo khó trốn lánh chiến tranh từ miền Trung dùng thuyền nan đi dọc theo bờ biển tiến vào đất Đồng Nai chiếm đất, dựng nhà, tạo lập đời sống mới. Miền Đông (còn gọi là Miễn tý) thời này đất đai còn thưa rộng và hoang dã (rừng thiêng nước đọng, đầy muỗi mòng và thú dữ). Dân số khoảng 40.000, đa số là người Khmer và lưu dân gốc Việt, sinh sống bằng nghề làm rẫy, săn bắn và bắt cá.
Đất Đồng Nai thuộc về chúa Nguyễn năm 1620 khi Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên gã con gái thứ hai, Ngọc Vạn công chúa, cho vua Chân Lạp là Chey Chettha II (1618-1628). Chettha II tặng Sãi vương lãnh thổ đất Đồng Nai làm quà cưới. Năm 1623, Chettha II xin cha vợ mang quân vào giúp bảo vệ ngai vàng chống lại sự đe dọa của quân Xiêm, lúc đó đang đưa một vương tôn Khmer khác lên giành ngôi vua. Sãi vương chưa thể mang quân vào giúp vì phải tập trung chống trả lại sự đánh phá của quân chúa Trịnh. Hơn nữa vùng đất Bình Thuận (Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết) vẫn còn thuộc chủ quyền của vương quốc Panduranga (Nam Chiêm Thành cũ) không thuận tiện cho việc chuyển quân bằng đường bộ. Trong khi đó, tình hình bên Chân Lạp cũng rất rối loạn, đất nước đang lâm vào nội chiến, các dòng họ vương tôn tranh nhau giành ngôi báu và kêu gọi chúa Nguyễn và vua Xiêm mang quân sang giúp. Năm 1653 Sãi vương mang quân vào miền Đông dẹp loạn, đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi lãnh thổ Chân Lạp và đưa vua Barom Reacha IV lên ngôi năm 1660.
Năm 1674, xảy ra việc vua Nặc Ông Nộn (Ang Non II) bị Nặc Ông Đài (Chey Chettha III), người anh con chú bác, nhờ quân Xiêm giúp chiếm ngôi vua. Ông Nôn bị thua phải chạy ra dinh Thái Khang (Khánh Hòa) xin được bảo vệ. Chúa Hiền sai ông Nguyễn Dương Lâm (tổng trấn Khánh Hòa) và tướng Nguyễn Đình Phái đưa Nặc Ông Nộn về lấy lại thành Sài Gòn (Prei Nokor) và sau đó tiến quân sang Chân Lạp vây thành Long Úc (Oudong). Nặc Ông Đài thua chạy vào rừng trốn, em là Nặc Ông Thu (Ang Sor Chey Chettha IV) ra hàng. Quân Xiêm làm áp lực quân sự và sau cùng bốn bên chấp nhận giải pháp chia lãnh thổ Chân Lạp ra làm hai. Nặc Ông Thu làm Đệ nhất vương cai trị vùng đất cao quanh Biển Hồ, Lục Chân Lạp, thuộc ảnh hưởng của Xiêm La, thủ đô đóng tại Long Úc (sau này là Phnom Penh hay Nam Vang). Nặc Ông Nộn làm Đệ nhị vương cai trị vùng đồng bằng sông Cửu Long, Thủy Chân Lạp, thuộc ảnh hưởng của chúa Nguyễn, thủ đô đóng tại Sài Gòn. [Từ đó chiến tranh xảy ra liên miên giữa hai vị vua Khmer, lúc thì phe thân Việt thắng thế, lúc thì phe thân Xiêm thắng. Tình trạng phân chia kéo dài đến năm 1698 khi Nguyễn Hữu Kính hoàn tất việc sở hữu đất đai miền Đông].
Mở rộng miền Đông
Cùng thời gian, một số cựu binh sĩ nhà Minh có kỷ luật hơn đi đường biển vào Đàng Trong tị nạn, được tiếp đón và đối đãi nồng hậu. Năm 1679 hai vị tướng nhà Minh, Dương Ngạn Địch (Tổng binh quận Long Môn, tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa) cùng phó tướng Hoàng Tiến, và Trần Thượng Xuyên (Tổng binh các quận Cao-Lôi-Liêm, tỉnh Quảng Đông) cùng phó tướng Trần An Bình, không chịu hàng nhà Thanh mang 3.000 quân bản bộ đi trên 50 chiến thuyền tới bể Tu Dung (Đà Nẵng) xin yết kiến chúa Hiền. Sau đó hai vị tướng đích thân đến cửa Thuận An bệ kiến chúa Nguyễn và xin tị nạn nước Nam. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần chấp thuận và cho binh đoàn Trường Phát giữ nguyên chức vị và tập quán cũ.
[Những binh sĩ nhà Minh tự xưng là Trường Phát vì tóc để dài giắt bính kiểu đuôi sam, không chịu cạo đầu như người Mãn Thanh. Thời đó, quần thần Việt Nam cũng có tục để tóc dài, nhưng búi lại phía sau].
Nhân dịp này chúa Hiền cho binh đoàn Trường Phát hợp lực với binh lực của hai vị tướng Việt, Nguyễn Dương Lâm và Nguyễn Đình Phái, vào miền Đông khẩn hoang lập ấp. Hai tướng Minh triều cũ chia quân làm hai toán, rẽ thuyền vào thẳng miền Đông. Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến đem binh thuyền vào cửa Soài Rạp và Đại Tiểu, đồn trú tại Lộc Dã (Đồng Nai), Mỹ Tho (Định Tường) và Cao Lãnh (Cai Lậy). Trần Thượng Xuyên (còn gọi là Trần Thắng Tài) và Trần An Bình cùng binh sĩ dừng lại ở cù lao Phố (còn gọi là Nông Nại Đại Phố, tức Đồng Nai đại phố), Bàn Lân (Biên Hòa) và Đề Ngạn (đất Gia Định cũ) lập nghiệp. Nhiều người Minh Hương sống tại những làng xã dọc bờ biển miền Trung cũng xin gia nhập vào hai binh đoàn này vào tái định cư ở miền Đông.
Từ đó hai đoàn quân Minh triều cũ cùng với người Minh Hương địa phương vỡ đất phá rừng, đào kinh, cất phố, lập chợ, đưa văn hóa, văn minh và kỹ thuật cao của Trung Hoa vào thẳng miền Nam Việt Nam. Họ chọn những vị trí thuận lợi cho việc giao thông (những vùng đất cao cạnh mé sông) và tập trung khai thác những vùng đất mới. Trong lúc chạy loạn, những quân nhân này không mang theo gia đình và tài sản riêng nên đã lấy vợ là người địa phương (gái Việt con cái của những gia đình nông dân nghèo đã đến từ trước, và gái Khmer con cái của của cư dân Thủy Chân Lạp), sinh con đẻ cái và định cư vĩnh viễn tại đây.
[Miền Đông vào thời này còn rất hoang dã. Nhiều huyền thoại về người Hoa còn lưu truyền cho đến nay. Chẳng hạn như huyền thoại về các võ sư người Hoa đến đất Gia Định tìm long mạch để khôi phục lại nhà Minh. Từ đó xảy ra nhiều chuyện đấu võ giữa các võ sư phái Thiếu Lâm Tự và các võ sư bản địa, nhất là với phái võ Bình Định của Tây Sơn tại 18 thôn Vườn Trầu. Hay năm 1770 ông Tăng Ân, một võ sư người Hoa, đánh cọp bằng tay không tại chợ Tân Cảnh (Gia Định). Năm 1786, ông Võ Tánh đánh cọp tại thôn Vườn Trầu. Đất Gia Định thời đó còn nổi tiếng về ma quái và bùa phép. Nhiều am miễu, chùa chiền của người Hoa được xây dựng trong địa bàn Biên Hòa (cù lao Phố) và Gia Định như chùa Quan Đế năm 1694, chùa Giác Lâm do Lý Thoại Long xây năm 1774, chùa Kim Chương (hay Kim Chung) năm 1775, chùa Gia Thạnh năm 1789, Quan Võ Miếu năm 1820, chùa Bà Thiên Hậu… để tạ ơn các vị thần và để trấn áp ma quỷ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay].
Sau khi tạm ổn định cư trú và muốn phát triển vùng đất mới, Trần Thượng Xuyên đã kêu gọi những thương nhân gốc Hoa từ các quốc gia khác (Singapore, Mã Lai, Trung Hoa lục địa) đến buôn bán. Một số thương gia đã ở lại lập nghiệp và cùng với gia đình các binh sĩ tị nạn làm phát triển sinh hoạt kinh tế của vùng đất mới. Thương thuyền các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Java qua lại trao đổi và buôn bán rất tấp nập. Người Hoa làm chủ hoàn toàn nền kinh tế tại miền Đông : xuất cảng gạo, cá khô (Đồng Nai), thảo dược, ngà voi (Chân Lạp) và nhập cảng tơ lụa, vải bố, thuốc bắc và các loại hàng xa xỉ khác (gạch ngói tráng men, đá xây cột chùa, nhang đèn, giấy tiền vàng mã). Người Khmer và người Việt trong thời kỳ này, vì còn quá lạc hậu, chỉ biết gắn liền đời sống với đất đai và nông nghiệp, và hoàn toàn vắng mặt trong các sinh hoạt kinh tế và thương mại.
[Cũng nên biết thêm về sự phối trí nhân sự tại miền Nam thời đó. Quân của hai tướng Việt và lưu dân Việt Nam trú đóng mạn bắc Sài Gòn (Bà Rịa và Bến Nghé). Quân Minh triều cũ và người Minh Hương đồn trú tại Gia Định, Biên Hòa, Mỹ Tho và Định Tường. Quân của các vương tôn và dân chúng Khmer tập trung tại Phú Lâm và các làng xã dọc hai bờ sông Cửu Long, đông nhất là tại Sóc Trăng. Ba thành phần chủng tộc này, do điều kiện sinh kế, đã sống xen kẽ và nương tựa lẫn nhau. Sau này người Khmer có khuynh hướng định cư trên những vùng đất cao (còn gọi là Giồng), người Việt và Hoa thích sống tại các vùng đất trũng (đồng bằng). Sự giao lưu giữa ba thành phần chủng tộc có lúc rất hài hòa nhưng cũng có lúc rất gay go. Người Khmer vì kém tổ chức và sống rải rác, khó tập trung, chịu nhiều thiệt thòi về đất đai và điều kiện sinh sống. Càng về sau người Khmer, không còn chiếm đa số tại những thành phố lớn, lùi dần về những làng xã xa xôi ở phía Tây].
Quân của Dương Ngạn Địch, đa số là người Triều Châu, và quân của Trần Thượng Xuyên, đa số là người Quảng Đông, liên hệ được với những nhóm Hoa di cư cùng ngữ phương khác trong vùng Đông Nam Á, thành lập những làng xã theo ngữ phương riêng. Người Hoa sống tại Mỹ Tho, Định Tường đa số nói tiếng Triều Châu ; người Hoa định cư tại Gia Định và Biên Hòa nói tiếng Quảng Đông. Sau này khi miền Đông đã phát triển, nhiều nhóm di dân nghèo dưới thời nhà Thanh từ các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nàm (Trung Hoa) đã dùng thuyền vào miền Nam xin định cư và lập nghiệp. Những người này được ban tổ chức của hai đoàn quân phân phối về các vùng đất mới và sinh hoạt với những gia đình cùng ngữ phương khác đã có mặt từ trước. Hai vị tướng Minh triều cũ thay mặt chúa Nguyễn thu thuế (gạo, cá khô, lâm hải sản) rồi chở ra Phú Xuân nộp lại cho triều đình. Về sau hai vị tướng gốc Hoa được lệnh phụ giúp Nặc Ông Nộn bình định đất đai tại Thủy Chân Lạp.
Dựa vào thế lực của đoàn quân Dương Ngạn Địch, Nặc Ông Nộn đã nhiều lần tiến quân sang vây thành Nam Vang tranh ngôi vua với Nặc Ông Thu nhưng không thành công. Vài năm sau thấy không kiểm soát nổi quân của phó tướng Hoàng Tiến, Nặc Ông Nộn phải nhờ quân Việt sang giúp đỡ.
Quân của phó tướng Hoàng Tiến (còn gọi là Huỳnh Tấn), với sứ mạng giúp Nặc Ông Nộn bình định đất đai, đã phiêu lưu trên khắp các nhánh sông Cửu Long (sông Tiền và sông Hậu), đánh chiếm nhiều làng của người Khmer dọc hai bờ sông. Năm 1682, Hoàng Tiến tiến quân qua Lục Chân Lạp (Campuchia ngày nay), khám phá được nhiều vùng đất trù phú mới. Khi trở về, Hoàng Tiến thuyết phục Dương Ngạn Địch cùng binh sĩ ly khai khỏi ảnh hưởng của triều đình Việt Nam và Trần Thượng Xuyên để thành lập một lãnh thổ riêng giữa Thủy và Lục Chân Lạp.
Trong những năm 1682-1688, nhiều mối bất hòa đã xảy ra giữa quân sĩ của hai vị tướng. Trần Thượng Xuyên cùng binh sĩ muốn an cư lập nghiệp, tập trung xây dựng và phát triển vùng đất đang cư trú. Binh sĩ của phó tướng Hoàng Tiến, ngược lại, muốn tiến chiếm luôn đất Chân Lạp và thành lập một vương quốc riêng. Dương Ngạn Địch không tán thành ý đồ của Hoàng Tiến, vì đã thề trung thành với chúa Nguyễn, nên không muốn có hành động phản bội ơn dung dưỡng lúc sa cơ thất thế.
Năm 1688, Dương Ngạn Địch vì không chiều ý của quân sĩ bị phó tướng Hoàng Tiến giết chết. Hoàng Tiến chống lại Trần Thượng Xuyên và chống luôn chúa Nguyễn, đóng quân ở đồn Nam Khê (Mỹ Tho), cho đóng tàu, đúc súng chuẩn bị tiến đánh Lục Chân Lạp. Vua Chân Lạp Nặc Ông Thu cũng cho đào hào, đắp lũy cố thủ và bỏ không triều cống chúa Nguyễn nữa. Nghĩa vương Nguyễn Phúc Trăn cùng Trần Thượng Xuyên mang quân đánh dẹp, dùng mưu bắt và giết Hoàng Tiến. Chiến trận xảy ra rất khốc liệt, quân của Hoàng Tiến bị sát hại rất nhiều. Những người sống sót một số đầu hàng, một số chạy sang Chân Lạp lánh nạn rồi sau đó định cư và lập nghiệp luôn tại Phnom Penh và những tỉnh quanh Biển Hồ (Tonlé Sap) : Neak Luong, Kompong Chanang. Đám tàn quân này sinh lòng thù hận cả người Việt lẫn người Hoa sống tại miền Nam, đã phụ giúp các vua Chân Lạp và Xiêm La chống lại Việt Nam. Tình hình Chân Lạp và miền Đông trở nên mất an ninh, loạn lạc xảy ra khắp nơi, quan quân triều đình nhà Nguyễn đã phải vất vả lắm mới dẹp yên.
Bình định miền Đông
Năm 1698, Minh vương Nguyễn Phúc Chu phong Nguyễn Hữu Kính làm Kinh lược sứ lãnh thổ miền Đông. Nguyễn Hữu Kính chiếm lại Đông Phố lập thành dinh, huyện, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lấy đất Biên Hòa lập Trấn Biên dinh và đất Gia Định lập Phiên Trấn dinh. Ông chiêu mộ lưu dân ngủ Quảng (Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Bình Định và Phú Yên) vào khai khẩn đất hoang. Những người Hoa theo Hoàng Tiến và di dân nhà Thanh bị gom lại thành một xã lấy tên Thanh Hà (làng của người nhà Thanh) ở Trấn Biên dinh. Người Minh Hương và những người phục vụ dưới trướng của tướng Trần Thượng Xuyên thì tập trung vào xã Minh Hương ở Gia Định rồi giao cho Trần Thượng Xuyên quản lý. Trần Thượng Xuyên được phong làm đô đốc Phiên Trấn dinh.
Từ đó toàn bộ đất đai miền Đông được sát nhập vào sổ bộ Việt Nam, danh từ Thủy Chân Lạp mất tên luôn từ đó. Những thành phố, làng xã mang tên Khmer đều được phiên âm ra tiếng Nôm (dựa theo cách phát âm của người Hoa).
Muốn diệt tận gốc quân phiến loạn người Hoa, năm 1700 Nguyễn Hữu Kính và Trần Thượng Xuyên cùng con là Trần Đại Định tiến quân sang Chân Lạp đánh dẹp. Tàn quân gốc Hoa và quân Khmer, được quân Xiêm La hỗ trợ, chống trả kịch liệt. Cuộc chiến kéo dài trong nhiều năm, sau cùng quân Chân Lạp bị đánh bại và quân triều đình chiếm luôn thành Nam Vang. Trong khi đó tại Gia Định, năm 1747, một thương gia Phúc Kiến tên Lý Văn Quang nhận thấy việc phòng thủ đất Đồng Nai bị yếu đã cùng 300 người Hoa khác nổi lên chiếm cù lao Phố. Chúa Nguyễn sai Trần Đại Định (con của Trần Thượng Xuyên), đô đốc Phiên Trấn dinh, mang quân đi đánh dẹp, Lý Văn Quang cùng đồng bọn bị bắt. Vì muốn duy trì tốt quan hệ với Trung Hoa, chúa Nguyễn sai áp giải Lý Văn Quang và đồng bọn về Phúc Kiến (Trung Hoa) để nhà Thanh xét xử.
E. Khai phá Miền Tây
Giữa thế kỷ 17, nhiều cuộc khởi nghĩa chống nhà Mãn Thanh đã xảy ra trong lục địa Trung Hoa. Dưới sự chỉ đạo của Trịnh Thành Công (Kosinga), một tướng Minh triều cũ gốc Triều Châu, dân chúng nổi lên chống lại quân Thanh nhưng đều bị đánh bại, tất cả các làng xã của người Tiều ở Triều Châu và vùng ven biển Hạ Môn đều bị thiêu rụi. Tàn quân của Trịnh Thành Công phải chạy ra đảo Đài Loan lập chiến khu “phản Thanh phục Minh”.
Trong đám tàn quân này có một người tên Mạc Cửu (hay Mạc Kính Cửu), quê ở Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, theo Trịnh Thành Công kháng chiến. Năm 1671 thấy chống không nổi quân Thanh, Mạc Cửu mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người rời khỏi Phúc Kiến bằng đường biển. Quân của Trịnh Thành Công ngày càng suy yếu bị quân Thanh đánh bại năm 1680. Quân Thanh tàn sát hết kháng chiến quân, những người sống sót bỏ chạy bằng đường biển đến các quốc gia Đông Nam Á tị nạn, hòa nhập với những nhóm Minh triều cũ đã di cư từ trước.
Căn Khẩu Quốc
Mạc Cửu cùng thân bằng quyến thuộc sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả đã cập thuyền vào đảo Koh Tral, rồi đổ bộ lên một vùng đất lạ (được gọi là Panthaimas) trong Vịnh Thái Lan. Mạc Cửu dò hỏi và được biết vùng đất này thuộc ảnh hưởng của vương triều Lục Chân Lạp. Phái đoàn Mạc Cửu đến Oudong gặp Nặc Ông Thu (Chey Chettha IV) và ở lại hợp tác cho đến năm 1681. Sau đó Mạc Cửu xin vua Khmer cho khai khẩn vùng đất sình lầy Panthaimas trong Vịnh Thái Lan.
Thật ra trong giai đoạn này vương quyền của vua Chân Lạp không còn ảnh hưởng mạnh trên những vùng đất ven biển. Vịnh Thái Lan là nơi hành nghề của các đám hải tặc vì là nơi thương thuyền qua lại rất đông. Quan quân Chân Lạp, vì bận rộn với những cuộc nội chiến, không đủ khả năng bảo vệ những vùng đất ven biển và bỏ trống để mặc cho hải tặc lập căn cứ. Hơn nữa đây là những vùng đất sình lầy phèn chua nước mặn, đầy muỗi mòng không ai dám đến lập nghiệp, chỉ một số dân phiêu lưu đến ở. Thời này đất Panthaimas chỉ có độ mươi nóc gia của người Khmer làm nghề săn thú và đánh cá.
Mạc Cửu là một tay giang hồ giỏi tổ chức. Trong suốt thời gian lênh đênh trên biển cả, ông đã chiêu tập được một số binh sĩ Minh triều cũ đang hành nghề hải tặc về dưới trướng. Thấy có khả năng khai thác nguồn lợi của những đám hải tặc trong vùng, Mạc Cửu lập ra 7 xã : Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài Mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (cảng của người Mán), về sau đổi thành Căn Khẩu (tiếng Hoa tùy theo ngữ âm gọi là Căn Kháo hay Căn Cáo, xem Phụ lục 2). Ổn định xong, Mạc Cửu thành lập nhiều sòng bạc để kinh tài. Được nổi tiếng, ông mộ thêm lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi về lập nghiệp và đặt tên vùng đất mới thành Căn Khẩu Quốc. Căn Khẩu Quốc, tuy là một lãnh địa của Lục Chân Lạp nhưng không lệ thuộc trực tiếp vào nền hành chánh của vương triều Khmer, có thể nói vùng đất này được hưởng qui chế tự trị.
Lưu dân, đa số là người Triều Châu, Quảng Đông và Phúc Kiến, lúc ban đầu là những người không chấp nhận sống dưới trướng nhà Thanh bỏ nước ra đi xây dựng cuộc sống mới. Thành phần xã hội cũng rất đa dạng : người giỏi về văn học, kẻ giỏi đi biển, người thạo buôn bán, nắm vững kỹ thuật chế biến thực phẩm, kẻ biết canh tác lúa nước và đánh cá trên sông lạch, nói chung họ là những thành phần ưu tú của vương triều nhà Minh vừa thất sủng. Về sau có thêm dân chúng nghèo khó dưới thời nhà Thanh đến xin tị nạn. Chẳng bao lâu sau Căn Khẩu Quốc nổi tiếng khắp vùng là miền đất trù phú, dễ kiếm tiền. Đảo Koh Tral được đổi tên thành đảo Phú Quốc, có nghĩa là vùng đất giàu có, phú cường. Những tay phiêu lưu giang hồ đến đầu quân dưới trướng Mạc Cửu ngày càng đông và là một đe dọa uy quyền đối với Xiêm La, một thế lực đang lên trong vùng.
Trước sự lớn mạnh của đế quốc Xiêm La, Mạc Cửu xin vua Chân Lạp bảo vệ nhưng không được thỏa mãn. Chân Lạp cũng đang bị Xiêm La khống chế. Mạc Cửu dò tìm một thế lực mạnh khác trong vùng để xin được bảo vệ, ông được một thương gia người Minh Hương tên Tô Quân cho biết xa hơn về phía Tây-Bắc, những người Hoa tị nạn khác được chúa Nguyễn cho định cư tại miền Đông đang phát triển nhanh chóng. Thêm vào đó, quân của chúa Nguyễn đang làm chủ miền Tây đất Chân Lạp và đang đối đầu với quân Xiêm La. Năm 1708, Mạc Cửu cử hai thân tín, Trương Cầu và Lý Xa, ra Huế xin được bảo vệ. Năm 1711, Mạc Cửu được Minh vương Nguyễn Phúc Chu mời ra Huế bái kiến. Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn và được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu.
Năm 1717, vua Xiêm mang 20.000 quân tấn công các làng xã của những di dân gốc Hoa tại Căn Khẩu, Mạc Cửu thua phải bỏ chạy. Năm 1724, ông đích thân vào Gia Định dâng luôn đất và xin Ninh vương Nguyễn Phúc Trú giúp khôi phục lại Căn Khẩu Quốc. Chúa Nguyễn mang quân xuống đánh, quân Xiêm thua phải rút về nước. Ninh vương thu hồi tất cả làng xã bị chiếm rồi phong Mạc Cửu làm đô đốc cai trị đất Căn Khẩu. Căn Khẩu Quốc được đổi thành Long Hồ dinh.
Từ 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan. Tuy bị đổi tên nhưng di dân Trung Hoa vẫn tiếp tục gọi Long Hồ dinh là “Căn Khẩu Quốc”. Người Hoa từ khắp nơi trong vùng (bị người Tây Ban Nha và Hòa Lan đàn áp, xem Phụ lục 1) đổ về đây lập nghiệp. Quân Khmer và Xiêm La đã nhiều lần tấn công vào vùng đất này nhưng đều bị Mạc Cửu đẩy lui.
Mạc Cửu mất (1735), con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được Ninh vương Nguyễn Phúc Trú phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi thành trấn Hà Tiên.
Bình định đất đai miền Tây
Mạc Thiên Tứ (còn gọi là Mạc Thiên Tích) là một vị tướng giỏi, đã nhiều lần mang quân tấn công Xiêm La và bảo hộ vùng phía nam đất Chân Lạp. Mạc Thiên Tứ có công mở rộng thị trấn Hà Tiên và năm 1739 lập thêm bốn huyện : Long Xuyên (miền Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (miền Cần Thơ) và Trấn Di (miền bắc Bạc Liêu). Mạc Thiên Tứ còn là một nhà học thức lỗi lạc, kiến thức uyên bác, giỏi ngoại giao, có tài thơ văn, đã để lại nhiều tác phẩm giá trị (xem Phụ lục 2).
Thời bấy giờ nội bộ Chân Lạp có loạn. Năm 1747, Nặc Ông Thâm (Thommo Racha III) từ Xiêm La về đánh đuổi Nặc Ông Tha (Chettha V) chiếm ngôi, Ông Tha chạy sang Gia Định cầu cứu. Nặc Ông Thâm sau đó bị Satha II giết, con cháu lại tranh giành ngôi báu. Năm 1749, Nguyễn Phúc Khoát cho quân hộ tống Ông Tha về nước lấy lại ngôi vua. Một người con của Ông Thâm tên Nặc Nguyên (Nac Snguon) nhờ quân Xiêm La sang đánh, Ông Tha thua phải chạy về Gia Định.
Nặc Nguyên mật giao với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài hợp lực đánh chúa Nguyễn. Nguyễn vương biết trước nên năm 1753 cử Nguyễn Cư Trinh sang Nam Vang đánh. Nặc Nguyên thua bỏ thành chạy về Hà Tiên nương náu nhà Mạc Thiên Tứ. Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập (Long Xuyên) để tạ tội và xin được về lại Nam Vang cai trị, chúa Nguyễn ưng thuận.
Năm 1758 Nặc Nguyên mất, không người kế vị. Nặc Nhuận là chú họ tạm quyền giám quốc nhưng bị con rể là Nặc Hinh giết rồi tự xưng vương. Chúa Nguyễn sai Trương Phúc Du mang quân sang đánh, Nặc Hinh bị thuộc hạ giết chết. Do đề nghị của Mạc Thiên Tứ, chúa Nguyễn thuận cho Nặc Tôn (Ang Ton II) con của Nặc Nhuận lên làm vua.
Nặc Tôn tặng chúa Nguyễn lãnh thổ Tầm Phong Long (Meat Chruk hay Mật Luật, nay là Châu Đốc và Sa Đéc) để tạ ơn. Nặc Tôn tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền Đông-Nam Chân Lạp : Hương Úc (Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Trực Sâm (Chưng Rừm), Sài Mạt (Cheal Meas) và Linh Quỳnh (vùng duyên hải từ xã Sré Ambel đến làng Peam), nói chung gồm toàn bộ vùng biển ven duyên quanh đảo Phú Quốc. Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Chúa Nguyễn sát nhập tất cả vùng đất mới vào trấn Hà Tiên rồi giao cho Mạc Thiên Tứ cai trị.
Chúa Nguyễn quy các lãnh thổ miền Tây thành ba đạo : Đông Khẩu đạo (Sa Đéc), Tân Châu đạo (Tiền Giang) và Châu Đốc đạo (Hậu Giang), chuyển Long Hồ dinh về đất Tầm Bào (Vĩnh Long) thuộc Châu Đốc đạo. Đất Tầm Bào trước kia gồm có một phần bờ biển của Chân Lạp do Nặc Tôn tặng. Công cuộc bình định đất đai miền Nam xem như hoàn tất.
Hà Tiên : vùng đất của tranh chấp
[Năm 1767, quân Miến tiến chiếm Xiêm La bắt được vua Xiêm là Phong vương (Boromoraja V) và con là Chiêu Đốc, thiêu hủy thành Ayuthia, nhưng sau đó phải rút về vì Miến Điện bị quân nhà Thanh (Trung Hoa) tấn công. Hai người con của Phong vương là Chiêu Xỉ Khang chạy thoát sang Chân Lạp và Chiêu Thúy sang Hà Tiên lánh nạn. Trong thời gian này Xiêm La không có vua].
Trình Quốc Anh, một người Hoa gốc Triều Châu, giữ chức Phi Nhã (xã trưởng) đất Mang Tát thuộc Xiêm La, khởi binh chống lại quân Miến rồi tự xưng vương năm 1768. Trình Quốc Anh tổ chức lại binh mã, chiêu mộ rất nhiều hải tặc gốc Hoa đang hoạt động trong Vịnh Thái Lan để tăng cường lực lượng. Trình Quốc Anh muốn triệt hạ uy lực của gia đình Mạc Thiên Tứ tại Hà Tiên vì đó là một đe dọa và là địch thủ lợi hại cho uy quyền của ông trong Vịnh Thái Lan. Sự giàu có của Hà Tiên cũng khơi động lòng tham của rất nhiều tướng cướp trong vùng, ai cũng muốn đánh cướp vùng đất này nhưng tất cả đều sợ Mạc Thiên Tứ. Khi Trình Quốc Anh kêu gọi hợp tác, các nhóm hải tặc liền hùa theo binh lực Xiêm La tấn công Hà Tiên để cướp của.
Năm 1768 lấy cớ truy lùng một hoàng tử Xiêm, Trình Quốc Anh mang quân tiến chiếm Hòn Đất, bắt giam và tra tấn nhiều giáo sĩ công giáo để tìm nơi trú ẩn của Chiêu Thúy, đồng thời sai tướng Chất Tri (Chakri) mang quân bảo hộ Chân Lạp và đưa Nặc Ông Nộn (Ang Non III) lên làm vua. Nặc Tôn chạy về Gia Định lánh nạn. Quân của Trình Quốc Anh đã ở lại Hòn Đất ba tháng để truy lùng vị hoàng tử Xiêm lưu vong nhưng không tìm ra. Trước khi rút về nước, Trình Quốc Anh cho thành lập trên đảo một căn cứ hải quân và để lại một toán cướp biển nghe ngóng tình hình, tìm cơ hội đánh chiếm Phú Quốc và Hà Tiên.
[Năm 1765 giáo sĩ Bá Đa Lộc (Béhaine de Pigneau) đã thành lập tại Hòn Đất một chủng viện nhỏ với khoảng 40 giáo dân Việt, Xiêm và Hoa sống trong mấy ngôi nhà bằng tre. Năm 1767, Bá Đa Lộc cho vị hoàng tử Xiêm trú ẩn trong chủng viện].
Năm 1769, quân Khmer dưới sự chỉ đạo của một cướp biển người Triều Châu tên Trần Liên đổ bộ lên Hòn Đất. Trần Liên đánh cướp trụ sở truyền đạo, sát hại nhiều giáo sinh và giáo dân. Bá Đa Lộc cùng một vài giáo sinh thoát được chạy sang Malacca (Indonesia), rồi về Pondichéry (Ấn Độ) lánh nạn. Hoàng tử Chiêu Thúy được người đưa vào Hà Tiên xin Mạc Thiên Tứ che chở. Quân của Trần Liên, kết hợp với hai gia nhân của Mạc Thiên Tứ (Mạc Sung và Mạc Khoán), tiến đánh Hà Tiên. Hai gia nhân làm phản và một số lớn cướp biển Khmer bị Thiên Tứ giết chết, Trần Liên thoát được chạy sang Xiêm La tị nạn. Lợi dụng cơ hội này Mạc Thiên Tứ chuẩn bị đưa hoàng tử Chiêu Thúy về Xiêm La đoạt lại ngôi báu. Ông cho luyện tập binh mã rồi mang quân ra chiếm lại Hòn Đất (1770) và chuẩn bị tiến công Xiêm La.
Công việc đang tiến hành thì vào đầu năm 1771, một cận thần của Mạc Thiên Tứ tên Phạm Lam nổi lên làm phản. Phạm Lam kết hợp với hai cướp biển Trần Thái (Vinhly Malu, người Mã Lai) và Hoắc Nhiên (Hoc Nha Ku, người Khmer) lập đảng gồm 800 người và 15 tàu thuyền tiến vào Hà Tiên nhưng bị Mạc Thiên Tứ đánh bại.
Giữa năm 1771, nhận thấy những đám cướp biển không đánh lại Mạc Thiên Tứ, Trình Quốc Anh đích thân mang đại binh gồm 20.000 người tiến chiếm Hà Tiên với sự chỉ điểm của Trần Liên. Trình Quốc Anh thiêu rụi thành phố, chiếm tất cả các đảo lớn nhỏ quanh Hà Tiên, mang về rất nhiều vàng bạc. Con cháu, hầu thiếp và người con gái út của Mạc Thiên Tứ bị Trình Quốc Anh bắt sống đem về Bangkok. Mạc Thiên Tứ cùng các con trai phải rút về Rạch Giá, cho người về Gia Định cầu cứu chúa Nguyễn.
Năm 1772, chúa Nguyễn mang 10.000 quân cùng 300 chiến thuyền sang Chân Lạp đánh quân Xiêm và đưa Nặc Ông Tôn lên ngôi. Trình Quốc Anh làm áp lực tại Hà Tiên buộc quân Việt phải dừng chân tại Nam Vang không được tiến xa hơn. Sau cùng hai bên đi đến một thỏa thuận để quân Xiêm rút khỏi Hà Tiên : chúa Nguyễn rút quân khỏi Chân Lạp và chấp nhận để Nặc Ông Nôn (Ang Non III), người được vua Xiêm chỉ định, lên ngôi vua. Năm sau (1773) Trình Quốc Anh rút quân khỏi Hà Tiên, Phú Quốc và Hòn Đất, trả lại người con gái bị bắt làm tù binh cho Mạc Thiên Tứ, nhưng buộc phải giao hoàng tử Chiêu Thúy cho quân Xiêm. Chiêu Thúy bị Trình Quốc Anh mang về Bangkok hành quyết.
Hà Tiên sống lại thời yên bình. Năm 1774, Bá Đa Lộc trở về Hòn Đất thành lập họ đạo, năm sau ông được Mặc Thiên Tứ tiếp đãi trọng hậu và cho phép đi giảng đạo khắp Hà Tiên.
Hà Tiên : Nguyễn Ánh khởi nghiệp vương
Năm 1777 quân Tây Sơn tiến chiếm Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh (hay Nguyễn Ánh), lúc đó còn là hoàng tử (15 tuổi), bị quân Tây Sơn truy lùng ráo riết, phải ẩn lánh trên đảo Phú Quốc, sau đó về lập chiến khu trong một khu rừng gần Hà Tiên. Quân Tây Sơn chiếm luôn Hà Tiên. Nguyễn Ánh sai Mạc Thiên Tứ sang Xiêm La cầu viện. Thiên Tứ cùng gia quyến dẫn theo một số binh sĩ đến Bangkok xin gặp vua Xiêm. Chẳng may vua Xiêm bị Tây Sơn tráo thư nghi Thiên Tứ lập mưu chiếm ngôi vua, tất cả đều bị bắt giam. Bị tra tấn dã man, Mặc Thiên Tứ cùng hai con, Mạc Tử Hoàng và Mạc Tử Thượng, tướng Tôn Thất Xuyên tự vẫn, 50 người trong đoàn tùy tùng đều bị xử trảm (tháng 4/1780). Một trong ba người con sống sót, tên Mặc Tử Sanh, được Nguyễn Ánh sau này phong chức lưu thủ cai quản Hà Tiên.
[Một người giao liên của Mạc Thiên Tứ tên Thân bị quân Tây Sơn bắt được. Quân Tây Sơn bèn giả làm một thư trả lời của Nguyễn Ánh sai Mặc Thiên Tứ chiếm kinh đô của Xiêm La. Thư này được dàn xếp để lọt vào tay một người Khmer thân Xiêm La tên Bổ Ông Keo. Ông Keo giao thư giả này lại cho Trình Quốc Anh. Vua Xiêm sai quân Xiêm giữa đêm tràn vào trại bắt tất cả đoàn tùy tùng của họ Mạc vào thành Bangkok giam giữ. Bị bắt giam trong một hoàn cảnh như vậy đối với họ Mạc là một điều sỉ nhục. Hơn nữa sứ mệnh cầu viện được giao phó không hoàn thành, Mạc Thiên Tứ cùng các tướng lãnh uống thuốc độc tự vẫn để tỏ lòng trung thành với Nguyễn Ánh và làm gương cho thuộc hạ. Tất cả binh sĩ tùy tùng và gia quyến bị vua Xiêm thảm sát. Một người Khmer phục dịch vua Xiêm tên Ỷ La Hom cất giấu được bảy người con và cháu trai của Mạc Thiên Tứ].
Tại Hà Tiên, trong thời gian lánh nạn (1777-1780) Nguyễn Ánh có dịp tiếp xúc với giám mục Bá Đa Lộc (tháng 9, 10/1777) cùng với hai vị tướng gốc Hoa, Đỗ Thành Nhân và Châu Văn Tiếp (1780). Trong khi giám mục Bá Đa Lộc đang tìm cách giúp khôi phục lại ngôi báu, Nguyễn Ánh được Đỗ Thành Nhân giúp tổ chức lại lực lượng. Đỗ Thành Nhân tập hợp được hơn 3.000 quân sĩ gốc Hoa giỏi thủy chiến lấy tên binh đoàn Đông Sơn.
Năm 1780, Nguyễn Ánh được binh đoàn Đông Sơn giúp chiếm lại Gia Định rồi tự xưng vương. Uy danh của Đỗ Thành Nhân vang lừng khắp đất Gia Định, lấn át thành tích của vị vương trẻ tuổi. Điều này làm Nguyễn Ánh lo ngại và tìm cách sát hại. Năm 1781, Nguyễn Ánh kết Đỗ Thành Nhân tội kiêu binh rồi cho người ám hại. Binh đoàn Đông Sơn do tướng Đỗ Bảnh chỉ huy bất mãn bỏ Nguyễn Ánh gia nhập đạo binh Hòa Nghĩa do Võ Nhàn (người gốc Hoa, phó tướng của Đỗ Thành Nhân) lãnh đạo tại 18 thôn Vườn Trầu. Võ Nhàn cùng Đỗ Bảng mang quân về đất Ba Giồng (Gò Công) chống lại Nguyễn vương. Châu Văn Tiếp ở lại phò Nguyễn Ánh, thay Đỗ Thành Nhân điều khiển lực lượng thủy quân.
Hay tin Đỗ Thành Nhân bị ám hại, quân Tây Sơn liền tiến công thành Gia Định (1782-1783), Nguyễn Ánh thua phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn và nhờ Bá Đa Lộc mang hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu cứu. Trong khi chờ đợi, Nguyễn Ánh sai Châu Văn Tiếp sang Xiêm La cầu viện. Năm 1784, hai tướng Xiêm (Chiêu Tăng và Chiêu Sương) mang 20.000 quân và 300 chiến thuyền chia làm hai ngã tiến vào miền Nam nhưng bị chận tại Mân Thít, Châu Văn Tiếp bị tử trận. Ngày 25 và 28/1/1785, Nguyễn Huệ đánh tan đại quân Xiêm và Nguyễn Ánh tại Rạch Gầm và Xoài Mút (Mỹ Tho), Chiêu Tăng cùng Chiêu Sương và độ hai ngàn quân Xiêm sống sót phải chạy bộ về nước. Bị quân Tây Sơn truy lùng ráo riết, Nguyễn vương được tàn quan quân Việt-Hoa đưa về Trấn Giang, Kiến Giang ra đảo Thổ Châu, đảo Cổ Cốt, rồi sang Bangkok lánh nạn.
Tây Sơn và người Hoa
Năm 1771, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ ở làng Tây Sơn nổi lên giết quan trấn thủ Trương Phúc Loan, chiếm thành Qui Nhơn. Khẩu hiệu của Tây Sơn “Đánh đổ Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương” rất được dân chúng nghèo khó tại miền Trung nghe theo.
Tại An Dương (Bình Định), Tây Sơn thu phục được nhiều người Hoa trong một đoàn Hát Bội tham gia phong trào, do ông bầu Nhưng Huy cùng kép hát Tứ Linh điều khiển. Hai người này rất tinh thông võ nghệ, giữ nhiệm vụ huấn luyện binh sĩ và chỉ trong một thời gian ngắn những tân binh có thể xông pha trận mạc một cách hữu hiệu.
Tại Quảng Nam, năm 1773, Nguyễn Huệ cũng thu phục được hai thương nhân Minh Hương : Tập Đình và Lý Tài. Tập Đình lãnh đạo binh đoàn Trung Nghĩa quân và Lý Tài chỉ huy Nghĩa Hòa, quân số có hơn 2.000 người. Tập Đình và Lý Tài giúp Tây Sơn đánh lại quân Trịnh lúc đó do Hoàng Ngũ Phúc cùng Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ chỉ huy. Sau nhiều cuộc đụng độ, Trung Nghĩa và Nghĩa Hòa quân bị tiêu diệt quá nửa phải lui về Bến Ván. Tây Sơn phải đưa Nguyễn Phúc Dương về Qui Nhơn, rồi An Thái (vùng cận sơn gần An Khê) lánh nạn. Cùng năm đó, tại Phú Yên, quân chúa Nguyễn do Tống Phúc Hiệp, một tướng Minh Hương, chỉ huy làm áp lực tại nam Qui Nhơn, tấn công Tây Sơn và giải cứu thái tử . Trước tình thế nguy khốn, bị kẹp giữa hai gọng kìm, Tây Sơn phải giảng hòa với quân Trịnh để rảnh tay đối phó với quân chúa Nguyễn.
Năm 1775, Tây Sơn dùng mưu lừa Tống Phúc Hiệp chiếm thành Phú Yên rồi mang quân đánh Nguyễn Phúc Thuần tại Câu Để. Nguyễn Phúc Dương chạy trốn về với Nguyễn Phúc Thuần và được phong làm Đông Cung thái tử. Mất Nguyễn Phúc Dương là mất danh nghĩa để hiệu triệu mọi người, Tây Sơn hứa thưởng công to nhất cho ai bắt được thái tử. Lý Tài bắt được Nguyễn Phúc Dương dẫn về Hội An. Nguyễn Nhạc gả cho con gái ruột, Thọ Hương, cho Phúc Dương rồi đưa về Bồng Giang.
Thấy sự tráo trở của Tây Sơn (dùng chiêu bài Nguyễn Phúc Dương đánh lừa Tống Phúc Hiệp, không tôn Nguyễn Phúc Dương lên làm chúa như đã hứa), tháng 3/1777, Lý Tài dẫn Nghĩa Hòa quân ra Bồng Giang giải cứu Đông Cung thái tử đưa vào Sài Côn (còn gọi là Tài Ngòn hay Đề Ngạn, ngày nay là Sài Gòn – Chợ Lớn) và tôn lên làm chúa, hiệu Tân Chính Vương. Hay tin đó, người Hoa cư ngụ tại Nông Nại Đại Phố kéo nhau về Sài Côn lập chợ. Chuyện mua bán tại Sài Côn lúc ban đầu rất vất vả vì chưa có chính quyền. Lý Tài chiêu mộ thêm binh sĩ gốc Hoa củng cố việc phòng thủ Gia Định chống lại Tây Sơn. Vào thời này uy quyền của chúa Nguyễn tại Gia Định sau những thất bại liên tiếp tại miền Trung giảm sút rất nhiều. Sài Côn rất loạn lạc, gian thương và trộm cướp hoành hành dữ dội, một số thương gia gốc Hoa được Lý Tài ủng hộ tự đứng ra tổ chức lại hệ thống mua bán sinh hoạt thương mại mới trở lại bình thường.
Sau khi dẹp yên quân Trịnh tại Quảng Nam, năm 1777, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ tiến vào Gia Định. Lý Tài dàn quân chận bước Tây Sơn nhưng bị đánh bại tại cầu Tham Lương, phải lui về Mỹ Tho. Nguyễn Lữ chiếm được thương cảng lớn nhất tại cù lao Phố là Nông Nại Đại Phố (Biên Hòa), tịch thu và chở hết những vật liệu kiến trúc quí của người Hoa (gạch ngói tráng men, cột đá cẩm thạch, bàn ghế khảm xà cừ) về Qui Nhơn. Nguyễn Huệ truy đuổi Nguyễn Phúc Dương và Lý Tài đến Ba Vạc, rồi Long Xuyên. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần bị bắt tại Ba Thắc (gần Cà Mau) và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương bị bắt tại Ba Vạc (gần Mỏ Cày, Bến Tre). Lý Tài có lẽ đã tử trận vì không còn được nhắc tới. Cả hai chúa Nguyễn bị giải về Gia Định và bị hành quyết (cạnh chùa Kim Chương). Khi quân Tây Sơn rút về Qui Nhơn, Nguyễn Ánh được Đỗ Thành Nhân và Châu Văn Tiếp giúp chiếm lại Gia Định (1780).
Năm 1781, hay tin Đỗ Thành Nhân bị giết, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ mang quân vào đánh Gia Định. Nhưng khi đến 18 thôn Vườn Trầu, quân Tây Sơn bị đạo binh Hòa Nghĩa, gồm toàn người Hoa do Võ Nhàn và Đỗ Bảng lãnh đạo (Võ Nhàn và Đỗ Bảng là hai phó tướng của Đỗ Thành Nhân, tuy bất mãn với Nguyễn Ánh nhưng không chấp nhận Tây Sơn), phục kích giết chết quan hộ giá Phạm Ngạn. Châu Văn Tiếp mang quân chiếm lại các thành Bình Thuận và Diên Khánh (1782).
Để trả thù, trong những năm 1783 và 1785, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ tiến quân vào Gia Định, Mỹ Tho giết hại rất nhiều quan binh của chúa Nguyễn, đốt hết các chợ của người Hoa tại cù lao Phố, Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, đập phá tất cả cơ nghiệp, ghe thuyền, đình miếu, nhà ở của người Hoa nhằm triệt tiêu hậu cần kinh tế, sức mạnh ẩn tàng của Nguyễn Ánh. Hàng chục ngàn người Hoa bị giết, xác thả trôi trên Kinh Tàu Hủ. Hàng hóa, đồ đạc của người Hoa bị tung vải khắp đường lộ không ai dám nhặt về.
Trịnh Hoài Đức ghi lại trong quyển Gia Định thành thông chí (được sử gia Aubaret, người Pháp, dịch lại) : “Năm 1783, quân Tây Sơn giết sạch toàn bộ cộng đồng người Hoa ở Biên Hòa, từ già đến trẻ không tha một ai, số người Hoa bị giết có đến hàng chục ngàn người, xác ném xuống sông Đồng Nai đặc nghẹt làm nước gần như ngưng chảy và nhiều tháng sau dân Việt sống hai bên con sông này còn sợ không dám ăn tôm cá”.
Nhiều gia đình Hoa sống tại đồng bằng miền Nam chạy lánh nạn sang Chân Lạp rồi định cư luôn tại đây. Vì quá uất hận sự tàn ác của quân Tây Sơn, những gia đình Hoa này hợp với đám tàn quân của Hoàng Tiến trước kia và thù hận luôn tất cả người Việt. Những di dân mới này hòa nhập ngay vào cuộc sống của cư dân địa phương (khmer) và mang luôn bản thể Chân Lạp. Họ truyền bá những hành vi tàn ác của người Việt đối với người Hoa và người Khmer cho con cháu.
[Huyền thoại về sự dã man của quan quân Việt Nam còn được phổ biến cho đến ngày nay. Sự hận thù người Việt của người Khmer nảy sinh trong giai đoạn này. Người Khmer thời đó không thù người Việt vì mất đất đai mà vì được nhóm người gốc Hoa này tuyên truyền về những hành vi tàn bạo của các vua chúa Việt Nam đã gây ra cho dân tộc họ. Sự thù hận này được thực dân Pháp làm tăng cường độ trong ý đồ chia để trị. Sau này, vì muốn thu phục cảm tình của phe Khmer đỏ, Trung Quốc đã gợi lại vấn đề Campuchia bị mất đất bởi người Việt Nam. Lon Nol, một người Khmer gốc Hoa năm 1970, và Pol Pốt, Khmer đỏ được Trung Quốc đỡ đầu năm 1978, đã khích động dân chúng Khmer “cáp duồn”, giết người Việt, để khủng bố và đòi lại đất đai].
Cũng nên biết thêm là người Hoa sinh sống tại miền Nam rất biết ơn và sẵn sàng bảo vệ các chúa Nguyễn mỗi khi nguy biến, khi quân Tây Sơn sát hại những di dân gốc Hoa này, Nguyễn Huệ muốn cảnh cáo người Hoa thôi ủng hộ Nguyễn Ánh. Chính vì những hành động trên mà Tây Sơn mất hẳn cảm tình của người Hoa sinh sống tại miền Nam. Khi Nguyễn Ánh trở về nước (năm 1787), những người Hoa còn sống sót đã bỏ hết tiền của, góp công góp sức xây dựng lại lực lượng cho Nguyễn vương khôi phục lại miền Nam.
[Năm 1788, Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc (lần thứ ba) đánh tan quân Mãn Thanh, trong đó có sự hợp tác của rất nhiều sắc tộc thiểu số, đặc biệt là các bộ lạc Thượng trên dãy Trường Sơn, binh đội Panduranga (Nam Chiêm Thành), người Minh Hương tại miền Trung, quân Thiên Địa Hội (cựu binh sĩ nhà Minh) dọc biên giới Hoa-Việt và một số cướp biển người Hoa đang tung hoành trong Vịnh Bắc Phần].
Những bang hội đầu tiên
Năm 1787, Nguyễn Ánh trên đường từ Xiêm La trở về nước khi đi ngang qua đảo Cổ Cốt (Vịnh Thái Lan), một người Hoa nhà Thanh tên Hà Hỉ Văn cùng nhiều người trong Thiên Địa Hội theo giúp chiếm lại Hà Tiên và Long Xuyên. Năm 1788, Võ Tánh quên thù riêng (anh là Võ Nhàn bị Nguyễn Ánh sát hại năm 1782 vì tội phản loạn) xin theo Nguyễn Ánh. Võ Tánh tổ chức lại binh đoàn Hòa Nghĩa, sau đổi thành binh đoàn Kiến Hòa gồm 10.000 người, chia thành 5 đạo chiếm giữ cả vùng Gò Công. Võ Tánh cùng Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định bắt sống tướng Tây Sơn là Phạm Văn Tham (1789), cùng với Lê Văn Câu đánh bại một tướng Tây Sơn khác, Đào Văn Hổ, tại Diên Khánh (1790), cùng Nguyễn Ánh chiếm thành Qui nhơn (1793), đánh bại Nguyễn Văn Ngụ tại cửa Đại Chiêm (Quảng Nam, 1797). Nói chung tất cả người Hoa tại miền Nam đều ủng hộ Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn khôi phục lại miền Nam.
Để tỏ lòng biết ơn những người Hoa đã vì nghĩa giúp mình, Nguyễn Ánh phong tước vị cao trong triều đình cho những vị tướng gốc Hoa đã theo ông khôi phục lại giang san. Huyền thoại về các Gia Định tam hùng, Gia Định tam thi được truyền tụng trong khắp chốn giang hồ (xem phụ lục 2). Nhiều nhân tài gốc Hoa sau khi đỗ đạt những khoa thi của triều Nguyễn đã ra giúp nước. Một nhân sĩ gốc Hoa, ông Võ Trường Toản, đã đào tạo được nhiều nhân tài ra giúp nhà Nguyễn như các ông Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Ngô Tùng Châu, Phạm Đăng Hưng v.v… Cũng nên biết thêm là trong giai đoạn này, chữ viết chính thức vẫn là chữ Hán. Muốn viết thông thạo chữ Nôm phải thông thạo chữ Hán. Nhiều công dân gốc Hoa đỗ đạt và giữ những địa vị cao nhất trong triều đình, khi chuyển qua học chữ Nôm họ cũng dễ thành công hơn những người Việt.
Để tỏ lòng biết ơn quần chúng gốc Hoa, năm 1787, Nguyễn Ánh cho thành lập bốn bang ngữ phương lớn gốc Hoa tại miền Nam gồm các bang Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và Hải Nàm để điều hành các vấn đề nội bộ. Có thể nói đây là lần đầu tiên người Hoa hải ngoại được phép thành lập những tổ chức quản trị độc lập với nền hành chánh của chính quyền địa phương.
Bốn bang này được hưởng nhiều đặc quyền trong sinh hoạt : thủ tục hành chánh giản dị, việc kiểm soát cư trú được bãi miễn, thuế khóa nhẹ nhàng… và được tự trị trong khu vực địa lý của mình. Từ đó sự trung thành của người Hoa với Nguyễn Ánh ngày càng thắt chặt và họ sẵn sàng tiếp ứng mỗi khi được gọi. Người Hoa là lực lượng quân sự chính trong việc đánh bại Tây Sơn sau này.
Sau khi thống nhất được giang sơn (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, xưng hiệu Gia Long. Để nâng đỡ người Hoa, Gia Long cải tổ lại các bang hội người Hoa và cho thành lập bảy bang theo lời yêu cầu của nhiều người gốc Hoa có công khác, đó là các bang : Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu và Hải Nàm. Bang chúng trong những bang này hưởng đầy đủ quyền lợi như người Việt.
F. Sau thời Gia Long
Trong suốt những thế kỷ 18 và 19, Minh Hương là người có lai lịch ngoại quốc được hưởng nhiều đặc quyền nhất tại Việt Nam : miễn lao dịch và miễn thuế thân. Người Minh Hương chỉ đóng thuế doanh nghiệp và có quyền gia nhập các binh đoàn gốc Hoa do những tướng Minh Hương chỉ huy hay phụ lực với các chính quyền địa phương.
Khi vua Gia Long vừa mất (1820), người Hoa miền Namliền tỏ ra thần phục tả quân Lê Văn Duyệt, một lão tướng thời Nguyễn Ánh tổng trấn Gia Định thành, thay vì vua Minh Mạng. Điều này không làm Minh Mạng hài lòng, ông muốn người Hoa thần phục mình như thần phục vua cha (Gia Long) nhưng không được toại nguyện. Năm 1824, Minh Mạng buộc tất cả người Hoa di cư phải đóng thuế thân kể cả người Minh Hương nhưng Lê Văn Duyệt phản đối, chương trình phải tạm ngưng. Tổng trấn Gia Định thành tiếp tục duy trì chính sách tự trị của người Hoa như dưới thời Gia Long.
Tả quân Lê Văn Duyệt mất năm 1832, Minh Mạng liền thi hành chính sách cai trị tập trung cứng rắn tại Gia Định : thu hồi quyền tự trị của các đại bang người Hoa. Điều này gây bất mãn trong cộng đồng người Hoa và nhiều người ra mặt bất tuân phục. Thừa dịp này quân Xiêm La chia làm bốn đạo tiến đánh Việt Nam. Nhờ hai tướng Trương Minh Giảng (người Minh Hương) và Nguyễn Xuân đứng ra chống trả, quân Xiêm bị đẩy lui về biên giới. Trương Minh Giảng đứng ra bảo hộ luôn đất Chân Lạp, xin lập công chúa Ang Mey (Ngọc Vân công chúa) lên làm quận chúa và đổi tên Chân Lạp thành Trấn Tây thành. Trương Minh Giảng áp dụng chính sách cai trị cứng rắn tại Chân Lạp, nhất là đối với những người Khmer bất phục tùng. Những hành vi tàn bạo của binh sĩ dưới trướng Trương Minh Giảng được những người gốc Hoa dưới trướng Hoàng Tiến tô phết thêm đã làm cho người Khmer càng thêm thù hận người Việt.
Loạn Lê Văn Khôi
Năm 1833 Lê Văn Khôi nổi lên chống lại vua Minh Mạng chiếm thành Phiên An (Gia Định) và 6 tỉnh miền Nam. Rất nhiều người Hoa đã theo giúp sức. Đội hải thuyền của Lê Văn Khôi gồm 3.000 thủy binh người Quảng Đông phụ trách việc phòng thủ trên các sông rạch quanh Gia Định. Minh Mạng cho quân công phá liên tục thành Phiên An trong nhiều tháng trời nhưng không thành công. Cuối năm 1833 Lê Văn Khôi bị bệnh chết, tàn quân được người Hoa tiếp tế quân lương rút vào thành Phiên An tử thủ trong gần hai năm. Tháng 7/1835 thành Phiên An bị chiếm, 1.831 người thủ thành đều bị chém đầu và chôn chung trong một hố gọi là Mả Ngụy. Số người Hoa bị bắt tại chỗ hơn 800 người, trong số đó có một người Hoa tên Bốn Bang trước khi bị giết có soạn một truyện dài bằng thơ lục bát, gồm 308 câu kể lại cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi và người gốc Hoa, được gọi là Bốn Bang thư. Sáu người lãnh đạo bị đem về Huế xử trảm (lăng trì), trong đó có hai thủ lãnh gốc Hoa tên Mạch Tấn Giai (người Tiều), Lưu Hằng Tín (người Quảng), một giáo sĩ Pháp tên Marchand (Cố Du), một người con của Lê Văn Khôi (7 tuổi).
[Bốn Bang không phải là tên của một người mà là bốn bang lớn của người Hoa, đại diện cho tất cả người Hoa tại miền Nam, tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi].
Từ đó người Hoa không còn được ưu đãi như trước. Năm 1834 Minh Mạng chia người Hoa ra làm hai nhóm để đánh thuế thân. Nhóm thứ nhất, người Minh Hương, đã định cư, lấy vợ Việt Nam và sinh con đẻ cái, đã giúp đỡ các chúa Nguyễn làm phát triển đất nước đóng thuế thân rất nhẹ, nhưng vẫn cao hơn người Việt đôi chút. Nhóm thứ hai, những người Hoa nhà Thanh sống dọc các bờ biển Trung Hoa (Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nàm), đa số là thương nhân, nông dân nghèo di cư sang Việt Nam, vẫn giữ quốc tịch Trung Hoa, phải đóng sưu cao thuế nặng, bị kiểm soát gắt gao và chỉ được cư trú tại một số nơi nhất định. Những người này không được quyền tiếp xúc với người Minh Hương.
Năm 1841, những khu vực tự trị của người Hoa di cư và người Khmer ở miền Đông (Biên Hòa, Đồng Nai…) và miền Tây (Hà Tiên, Bạc Liêu, Sa Đéc…) dần dần bị hủy bỏ. Vì ganh tị với sự giàu có của một số gia tộc, quan quân nhà Nguyễn có nhiều hành vi hà khắc trong việc quản trị các cộng đồng này.
Tại Chân Lạp, quân Xiêm xúi giục người Khmer, Việt và Hoa tại Chân Lạp nổi lên chống lại nhà Nguyễn. Trương Minh Giảng, không giữ nổi an ninh tại Trấn Tây thành, bị triệu về trấn giữ đất An Giang. Năm 1842 Trương Minh Giảng mất, nhiều cuộc nổi dậy của người Hoa (gọi chung là giặc Lâm Sâm) và người Khmer chống lại triều Nguyễn bùng lên tại khắp nơi : Kiên Giang (khởi nghĩa Hà Âm, Hà Dương gần kinh Vĩnh Tế), Hậu Giang (khởi Nghĩa Ba Xuyên, Trà Tâm), Cửu Long (khởi nghĩa Lạc Hóa). Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tiến Lâm phải chật vật lắm mới dẹp yên những cuộc nổi loạn này.
Chính sách hòa giải
Năm 1842, để trấn an dân chúng gốc Hoa, nhà Nguyễn ra lệnh cho quan quân phải tôn trọng những truyền thống sinh hoạt cổ truyền của người Hoa và gần như mặc nhiên công nhận hệ thống hành chánh trung gian (bang hội) là gạch nối liền giữa triều đình và cộng đồng người Hoa. Nhưng người gốc Hoa không còn hăng say giúp đỡ nhà Nguyễn như trước mà chỉ chuyên chú vào việc làm thương mại và canh tác nông nghiệp.
Vua Thiệu Trị cho người Minh Hương thành lập những “nhóm Minh Hương” tại những nơi có từ năm hậu duệ của người gốc Hoa trở lên. Những người này chỉ cần chứng minh nguồn gốc Minh Hương của mình bằng cách để tóc dài giắt bính sau ót, không cạo trán là đủ. Năm 1843, một đạo dụ khác cấm người Minh Hương không được tham gia việc bầu bán trong các khu vực người Hoa di cư và cấm trở về Trung Hoa vì sợ không trung thành với nhà Nguyễn.
Thực dân Pháp đến Việt Nam
Cuối năm 1872, một lái buôn Pháp, Jean Dupuis, muốn dùng sông Hồng chở hàng (súng đạn) sang Vân Nam buôn bán, cậy hai thương gia Hoa kiều, Bành Lợi Ký và Quan Tá Đình tại phố Hàng Buồm Hà Nội, giả buôn gạo và muối để vận chuyển hàng của y lên Vân Nam nhưng âm mưu này bị phát giác. Hai thương gia Hoa kiều này bị bắt. Sự kiện bị triều đình Việt Nam cản trở Jean Dupuis buôn bán là một cớ để Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873). Cũng nên biết thêm là tại Bắc kỳ, người Hoa gần như độc quyền buôn bán lúa gạo, chuyên chở và phân phối hàng hóa từ đồng bằng lên thượng du.
Khi Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (1859 – 1862) : Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho và đảo Côn Lôn, sự chống đối của quân đội Việt Nam rất là mãnh liệt. Việc phòng chống miền Đông đa số do đội quân ngủ Quảng và Minh Hương đảm trách. Nhưng khi Pháp tiến chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, sức kháng cự rất là yếu ớt, chỉ trong bốn ngày (từ 20 đến 24/6/1867) tất cả đều thất thủ. Quan Kinh lược sứ Phan Thanh Giản (một người Minh hương) phải đầu hàng và tự tử sau đó.
Miền Tây (Hà Tiên, Châu Đốc và Vĩnh Long) lúc đó rất đông cư dân Khmer, di dân Trung Hoa, một số gia đình người Chăm cư ngụ, những người này không được quyền trang bị vũ khí do đó sức đề kháng không cao. Binh lực của triều đình được trang bị bằng những vũ khí thô sơ, mất tinh thần chiến đấu nên đã không chống cự nổi sự tấn công của một vài chục tay súng thiện chiến người Pháp.
Đối với người Hoa, Pháp hay Việt Nam cai trị vùng đất này, số phận của họ không nhờ đó mà khá hơn. Những hành vi đối xử khắt khe của các vua quan Việt Nam sau thời Gia Long khiến cộng đồng người Hoa trở nên thụ động và nghi kỵ bất cứ một sự tiến gần nào. Sự tham gia về chính trị của cộng đồng này cũng vì đó giảm đi phần tích cực. Ưu tư lớn nhất của họ là được tồn tại và được yên ổn sinh sống với nền văn hóa và đồng hương trong cộng đồng của họ.
Những dư đảng người Hoa dọc biên giới
Tại miền Bắc, dưới thời Tự Đức nhiều băng cướp người Hoa nổi lên cướp phá các làng xã giáp ranh Việt-Hoa. Năm 1851 có giặc Tam Đường gồm ba tướng cướp Quảng Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường và Đức Thắng Đường nổi lên ở Thái Nguyên. Năm 1861 Tạ Văn Phụng kết hợp với quân cướp và các tù trưởng sắc tộc gốc Hoa nổi lên ở Quảng Yên. Ngoài ra còn có giặc Nông ở Thái Nguyên, Lý Hợp Thắng ở Cao Bằng, Lý Dương Tài ở Lạng Sơn v.v… gây nhiều thiệt hại cho dân chúng Việt Nam.
Năm 1858, Ngô Côn là một viên tướng của Thái Bình Thiên Quốc (do Hồng Tú Toàn lãnh đạo chống lại triều đình Mãn Thanh nhưng thất bại) chạy sang Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh tìm nơi trú ẩn. Ngô Côn kết nạp dưới trướng nhiều toán cướp như Lưu Vĩnh Phúc (Cờ Đen), Hoàng Sùng Anh (Cờ Vàng), Bàn Văn Nhị (Cờ Trắng). Triều đình Việt Nam đã nhiều lần xuất binh lên đánh nhưng không sao dẹp được, sau cùng vì quá túng quẫn nhà Nguyễn đã phải liên minh với những giặc khách này đánh lại quân Pháp.
Quân Cờ Đen (của Lưu Vĩnh Phúc) phục kích và giết được Francis Garnier (1873) tại Cầu Giấy và Henri Rivière (1883) ở phủ Hoài Đức, gần thành Hà Nội. Về sau các toán cướp này hợp với quân đội Mãn Thanh đánh phá Lạng Sơn và vùng biên giới sau Hiệp ước Patenôtre 1884. Để trả đủa, Pháp cho quân đổ bộ lên bán đảo Lôi Châu, Quảng Đông và bao vây đảo Đài Loan. Sự thù nghịch này chỉ chấm dứt sau khi Lý Hồng Chương (một vị tướng nhà Mãn Thanh) chịu ký Hiệp ước Thiên Tân ngày 9/6/1885 với Pháp thỏa thuận việc giao thương giữa hai nước. Quân Thanh chịu rút về biên giới và thôi ủng hộ những phiến quân tiến công vào các đồn lũy của Pháp. Pháp trả lại Trung Hoa những vùng đất đã chiếm, giải vây đảo Đài Loan và cũng thôi đòi bồi thường việc quân Trung Hoa đánh phá Lạng Sơn, thêm vào đó họ còn cho người Hoa sinh sống tại Việt Nam qui chế tự trị rộng rãi. Biên giới Hoa-Việt cũng được phân định rõ ràng bằng những trụ mốc.
Phong trào di dân từ lục địa Trung Hoa
Tại miền Bắc, không có tài liệu nào ghi nhận sự di cư của người Hoa bằng đường bộ qua các ngỏ biên giới. Chỉ một số dân cư các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây lưu tán vào các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Bắc mỗi khi nội địa Hoa lục có biến động về chính trị hay quân sự. Vùng biên giới thường do các băng đảng người Hoa, tàn dư của đảng Thái Bình Thiên Quốc, nắm giữ. Sự đi lại ở vùng biên giới phải qua sự kiểm soát của những băng đảng này, chỉ dân buôn lậu, những tay phiêu lưu giang hồ tứ chiến muốn đầu quân vào các băng cướp mới đến đây lập nghiệp.
Phần lớn di dân người Hoa đi thuyền từ Quảng Đông, bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam vào các khu vực hầm mỏ tỉnh Quảng Ninh, Móng Cái lập nghiệp. Họ sống tập trung quanh đảo Cát Bà, cảng Hải Phòng và khu trung tâm thương mại của Hà Nội. Năm 1874, Hải Phòng trở thành một cảng thương mại lớn do người Hoa chủ động phát triển. Sinh hoạt chính của người Hoa miền Bắc là canh tác nông nghiệp, khai thác hầm mỏ, tiểu thủ công nghiệp, bốc thuốc Bắc và buôn bán, họ còn đảm nhận việc chuyên chở hàng hóa hai chiều từ đồng bằng sông Hồng lên miền Thượng du và xuất nhập khẩu.
Miền đất hấp dẫn di dân Trung Hoa đến lập nghiệp vẫn là miền Nam. Họ đến miền Nam vì tiếng đồn thành công của những nhóm di dân gốc Hoa đã có mặt từ trước. Thành phần di dân mới này đa số là người Hoa quê quán ở Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Hạ Châu (còn gọi là Hẹ, Hạ Phương, Thượng Phương).
Năm 1841, một Đại Bang gồm bảy bang (Quảng Châu, Phúc Châu, Phúc kiến, Triều Châu, Quế Châu, Lôi Châu và Hải Nam) của người Hoa trước kia được thành lập tại Sài Gòn lấy tên Hoa Phủ Công Sứ. Đại Bang này chỉ toàn người Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến và Hải Nàm, không có người Minh Hương, có nhiệm vụ ấn định giá gạo và giải quyết những tranh chấp nội bộ giữa người Hoa di cư với nhau. Người Hoa di cư sau này cũng phải gia nhập vào một trong bảy bang này để được cấp thẻ cư trú.
Người Minh Hương không còn được đồng hương chấp nhận là người Hoa. Những người Hoa từng theo Mạc Thiên Tứ trước kia, vì điều kiện an ninh và kinh tế dời dần về miền Đông và Sài Gòn – Chợ Lớn sinh sống, cũng phải gia nhập vào một trong bảy bang của Hoa Phủ Công Sứ.
Phân công trong sinh hoạt
Do không có cơ quan đặc trách kiểm tra dân số và chính sách quốc tịch rõ ràng, dân số Minh Hương và Hoa kiều dưới thời nhà Nguyễn không có số liệu rõ ràng. Người Hoa sinh sống ở miền Bắc càng thiếu số liệu hơn nữa. Năm 1879, dân số gốc Hoa (không kể người Minh Hương) tại miền Nam khoảng 44.000 người. Nhưng người ta cũng có thể tạm kết luận rằng dân số gốc Hoa miền Bắc ít hơn miền Nam. Người Hoa tập trung đông nhất tại Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long, nhất là tại các tỉnh miền Đông (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Tại miền Nam, do chịu khó và khống chế được những điều kiện ngặt nghèo của thiên nhiên, cộng đồng gốc Hoa có đời sống tương đối khá giả hơn những cộng đồng khác và đã tăng trưởng rất nhanh. Nhân khẩu trong mỗi gia đình trung bình từ 5 đến 7 người.
Những gia đình người Minh Hương quyền quí cho con cái ăn học đến nơi đến chốn, đã đỗ đạt và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng quan trọng nơi chốn triều đình và trong các thị tứ. Nhiều gia đình gốc Hoa khác tiếp tục hội nhập vào cuộc sống và nắm giữ nhiều khâu then chốt trong việc buôn bán.
Tại những nơi đông cư dân gốc Hoa cư ngụ, tùy theo ngữ phương gốc, người Hoa thành lập đình, miếu, chùa chiền riêng cho bang của họ. Sinh hoạt của người Hoa cũng được phổ biến một cách tự nhiên sang những cộng đồng dân tộc địa phương khác như người Khmer, Việt Nam, và đã trở thành nếp sống, phong tục tập quán chung.
Tại thôn quê, dân chúng thuộc các cộng động chủng tộc này sinh hoạt với nhau rất hài hòa. Những biến động về chủng tộc, nếu có, chỉ xảy ra tại nơi đô thị. Do đất đai còn rộng lớn, không cộng đồng dân tộc nào tranh chấp với cộng đồng nào về ruộng đất. Tuy nhiên vấn đề ganh tị không thể không tránh khỏi, người Việt và Khmer vì không quen với lối sống cần kiệm và đùm bọc kiểu bang hội, không quen buôn bán đã không thành công bằng người Hoa về sự sung túc.
Sự phân công nghề nghiệp tự nhiên của người Hoa cũng bắt đầu rõ ràng trong giai đoạn này, giữa thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Tại miền Bắc, người Quảng Đông và Triều Châu chuyên môn về dịch vụ mua bán và phân phối hàng hóa. Người Hải Nàm và người Quảng Đông nghèo khó hơn làm nghề khai thác mỏ và bốc vác tại các bến cảng, người Hẹ và Triều Châu chuyên về các nghề trồng lúa nước, rau xanh, cây ăn trái và chữa bệnh. Người Hải Nàm cũng rất thiện nghệ trong nghề đánh cá và đóng thuyền gỗ trong vịnh Bắc Phần. Tại miền Nam, người Triều Châu chuyên chú vào nghề nông, vận chuyển, thủ công và tiểu thương, người Quảng Đông chuyên ngành về các nghề tiểu thương, sản xuất tiểu thủ công và dịch vụ ăn uống, người Phúc Kiến tập trung vào các dịch vụ tài chánh, nghề chế biến kim khí (sắt, thép, nhôm, đồng), người Hẹ buôn bán thuốc bắc và chữa bệnh. Tuy nhiên có nơi người Quảng Đông và Triều Châu kiêm nhiệm luôn cả việc sản xuất hàng công nghiệp nhẹ và cung cấp dịch vụ tài chánh, nhưng vì bị hạn chế về kinh nghiệm, cả hai nhóm ngữ phương này vẫn thua kém người Phúc Kiến về kinh nghiệm trong các hoạt động tài chánh, buôn bán và sản xuất đồ dùng bằng kim khí.
Sự phân công và vai trò của mỗi cộng trong sinh hoạt kinh tế tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi, lúc thì người Quảng Đông, lúc thì người Triều Châu làm chủ các thị trường. Vai trò của cộng đồng người Hải Nàm, Phúc Kiến, Hạ Phương cũng biến động tùy theo thị trường. Tuy nhiên, do có dân số đông nhất cộng đồng người Quảng Đông chiếm đa số trong các sinh hoạt kinh tế của người Hoa tại Việt Nam. Tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ được người Hoa định cư tại Việt Nam nói nhiều nhất. Người Hoa giàu có được mọi người xưng tụng là Tầu khậu (Tầu khựa) hay đại gia. Thương nhân Sơn Đầu (một tỉnh ven duyên tại Trung Hoa) chuyên chở đặc sản vào bán cho người Hoa tại Việt Nam như gạch tráng men, cam Quảng, cam Tiều, hồng khô, cam quít kiểng, lụa Bắc Thảo v.v…
Riêng tại Sài Gòn, người Hoa đã thành lập nhiều khu thương mại nổi tiếng, còn lưu danh cho đến ngày nay : Rạch Lò Gốm nổi tiếng với các lò gạch Quảng Di Thành, Tín Di Hưng, Hiệp Hưng chuyên sản xuất gạch ngói, chén bát, lu chậu đôn bằng sành và Rạch Chợ Lớn với các lò siêu, lò lu, lò gốm v.v… Ngoài ra còn có các xóm chuyên về một nghề như xóm Than chuyên bán than, xóm Củi, xóm Dầu (dầu phộng) nổi tiếng với lò dầu Phụng Di Thôn, xóm Giá (đãi giá từ hột đậu xanh), xóm Lò Bún (xây gạo và làm bún), xóm Rẫy Cải của người Triều Châu (chuyên trồng củ cải trắng), xóm Ụ Ghe chuyên đóng ghe thuyền đi sông, xóm Chỉ chuyên bán kim chỉ và vải sợi, xóm Te và xóm Rớ chuyên đánh bắt cá bằng giủi và rớ, xóm Cốm bán cốm bắp và cốm chùi, xóm Cầu Đường chuyên bán các loại đường phèn, đường thẻ và đường phổi, xóm Lá chuyên sản xuất tre lá để lợp nhà, xóm Lò Rèn tại Tân Kiểng nổi tiếng với đội quân Mậu Tài rất khéo tay và thiện nghệ, xóm Câu chuyên tổ chức đánh bạc, xóm Cây Gui chuyên sản xuất rượu.
Kinh Tàu Hủ (hay Kinh Chợ Lớn) được khởi đào năm 1819, là đường thủy vận nối liền Sài Gòn – Chợ Lớn với các sông ngòi tại đồng bằng sông Cửu Long, nơi đây người Hoa vận chuyển hàng nhập cảng hay nội địa về bán cho cư dân Lục Tỉnh, sau đó mua lúa gạo, gia cầm và nông phẩm khác về bán lại. Hai bên bờ kinh sinh hoạt của người Hoa rất tấp nập, quân Tây Sơn vào chiếm Gia Định năm 1782 đã sát hại người Hoa và thả xác trôi nghẹt con kinh này. Rạch Chợ Lớn nối liền rạch Cát với rạch Bến Nghé được đào năm 1772.
Người Hoa tại Sài Gòn được nhà Nguyễn cho thành lập một đội hải thuyền tuần tiểu trên khắp các nhánh sông Sài Gòn và vùng ven biển có tên là Tuần Hải đô dinh. Thủy thủ đoàn Tuần Hải, đa số là quân Thiên Địa Hội cũ quy thuận chúa Nguyễn, bản tánh rất hung dữ, dân chúng thời đó rất sợ oai của đám thủy thủ áo đen này và gọi họ là quân Tàu Ô vì tàu thuyền của họ thường trương buồm đen. Đội hải thuyền này lập căn cứ tại Thủ Thiêm mang tên xóm Tàu Ô. Xóm Tàu Ô còn có nhiệm vụ tu sửa những tàu thuyền của triều đình ghé bến Sài Gòn.