Rủi Ro Từ Chế Độ Tổng Thống (Bàn Việc Nước)

Chào mọi người, tôi là Nguyễn Trần Đặng. Cảm ơn mọi người đã có nhã ý theo dõi kênh Bàn Việc Nước.

Trong video trước, chúng ta đã cùng nhau nhìn lại kinh nghiệm cải cách của các nước cộng sản, có những trường hợp thành công và cũng có những nước thất bại. Trong đó, 3 nước thất bại chính là Nga, Belarus, và Ukraine. Họ đã thất bại vì giới trí thức của họ đã không có sự chuẩn bị và không biết phải làm gì sau khi Liên Xô sụp đổ. Vậy thì chúng ta, những người Việt Nam còn quan tâm đến nước, nhất định không được lặp lại sai lầm này. Và một trong những vấn đề quan trọng nhất cần được thảo luận chính là Việt Nam nên áp dụng mô hình dân chủ nào một khi chế độ cộng sản kết thúc, mà ngày đó thì không còn xa nữa.

Mặc dù tất cả chúng ta đều đồng ý với nhau rằng Việt Nam phải là một nước dân chủ nhưng trên thế giới hiện nay có 2 mô hình dân chủ chính.

Thứ nhất là mô hình dân chủ tổng thống, trong đó tổng thống là người được dân chúng cả nước bầu lên theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Ông hay bà tổng thống này vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu hành pháp, tức là người trực tiếp điều hành đất nước. Các bộ trưởng sẽ do tổng thống chỉ định. Một số nước có thêm thủ tướng còn một số nước thì không. Nhưng thủ tướng dưới chế độ tổng thống thì chỉ như phụ tá của tổng thống hay bộ trưởng thứ nhất mà thôi. Chế độ tổng thống tiêu biểu nhất chính là Hoa Kỳ. Nước này không có thủ tướng. Những nước khác như Ukraine thì có thủ tướng.

Thứ hai là chế độ dân chủ đại nghị, mà một số người còn gọi là dân chủ nghị viện hoặc chế độ thủ tướng. Ở đây tôi xin dùng chữ đại nghị do thói quen. Chế độ đại nghị phân biệt người đứng đầu nhà nước với người đứng đầu hành pháp. Người đứng đầu nhà nước ở các quốc gia quân chủ lập hiến là vua hoặc nữ hoàng, thí dụ như Vương quốc Anh hoặc Nhật Bản. Còn ở các nước cộng hòa thì người đứng đầu nhà nước có nhiều tên gọi, có thể là quốc trưởng, tổng thống, hay chủ tịch nước. Điểm chung của những người này là họ không trực tiếp điều hành đất nước mà chỉ giữ vai trò nghi lễ. Quyền lực thực sự nằm trong tay một thủ tướng. Ông hay bà thủ tướng này được quốc hội bầu ra từ một trong số các đại biểu quốc hội để đứng đầu hành pháp. Sau khi được bầu thì đến lượt thủ tướng lại đề cử một số thành viên khác trong quốc hội làm bộ trưởng và những người này cũng phải được quốc hội phê duyệt.

Vậy thì Việt Nam nên chọn mô hình nào? Theo tôi thì Việt Nam nên chọn chế độ dân chủ đại nghị bởi vì chế độ tổng thống có rất nhiều rủi ro.

Rủi ro đầu tiên chính là khả năng người dân chọn sai tổng thống là rất cao. Nếu bạn nào hay xem các chương trình âm nhạc thì sẽ biết rằng ban giám khảo của các cuộc thi đó đều là những ca sĩ hay nhạc sĩ chuyên nghiệp. Một trường hợp khác là các giải Nobel khoa học như vật lý, hóa học hay kinh tế sẽ được trao bởi một tổ chức được gọi là Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển. Tổ chức này gồm các thành viên là những giáo sư hàng đầu trong lĩnh vực của họ. Giả sử thay vì quyết định ai là người thắng giải Nobel Vật lý, Viện Hàn lâm này đưa ra 3 ứng cử viên và để cho dân chúng bầu chọn. Thử hỏi trong chúng ta có bao nhiêu người có đủ hiểu biết về ngành vật lý để chọn ra người nào xứng đáng thắng giải? Khả năng cao là chúng ta sẽ bầu cho người nào có ngoại hình nhất.

Trong chế độ tổng thống thì tổng thống là chức vụ quan trọng nhất. Người làm tổng thống trước hết phải có lòng yêu nước, có kinh nghiệm, có tầm nhìn, rồi phải có hiểu biết về kinh tế, chính trị, xã hội, luật pháp, y tế, giáo dục, ngoại giao, nói chung là tất cả những gì liên quan đến đất nước. Vậy thì theo các bạn, trong một nước thì có bao nhiêu người thường xuyên quan tâm đến chính trị và có đủ hiểu biết để chọn ra người xứng đáng nhất làm tổng thống? Trên thực tế thì đa số quần chúng sẽ chọn tổng thống dựa trên những tiêu chí ngoài lề, thí dụ như ngoại hình, mức độ nổi tiếng, hay khả năng nói chuyện hài hước.

Ngược lại, trong chế độ đại nghị thì thủ tướng do một “ban giám khảo” là quốc hội bầu ra. Cũng như tổng thống thì thủ tướng cũng là một chức vụ chính trị và không có gì hợp lý hơn là thủ tướng được bầu lên bởi những người làm chính trị. Trong một nước dân chủ thì các đại biểu quốc hội thường là những người hiểu rõ tình hình đất nước bởi vì họ phải thường xuyên tiếp xúc với cử tri cũng như nghiên cứu và biểu quyết các đạo luật. Tất nhiên là con người thì ai cũng có thể sai lầm, nhưng khả năng các đại biểu quốc hội chọn sai thủ tướng thấp hơn rất, rất nhiều so với người dân cả nước chọn sai tổng thống. Hơn nữa, việc khắc phục hậu quả dưới chế độ đại nghị cũng dễ hơn nhiều so với chế độ tổng thống mà ở phần sau của video tôi sẽ nói về điều này.

Rủi ro thứ hai của chế độ tổng thống là sự xung đột giữa hành pháp và lập pháp. Nếu tổng thống cũng là thành viên của đảng cầm quyền đang nắm đa số trong quốc hội thì mọi thứ đều suôn sẻ. Nhưng nếu xảy ra trường hợp ngược lại thì đất nước sẽ rơi vào bế tắc. Tổng thống có thể trì hoãn phê duyệt các đạo luật do quốc hội ban hành còn quốc hội thì có thể phủ quyết các đề xuất của tổng thống. Đây là điều xảy ra khá thường xuyên ở Mỹ khi một đảng nắm Nhà Trắng còn đảng kia nắm quốc hội. Trong khi đó, ở các nước theo chế độ đại nghị như Canada hoặc Đức thì thủ tướng cũng là thành viên của đảng cầm quyền trong quốc hội và do đó không có xung đột giữa hành pháp và lập pháp.

Rủi ro thứ ba đến từ việc chế độ tổng thống trao quá nhiều lực cho một người không thể bị thay thế trong một khoảng thời gian dài, thường là từ bốn đến năm năm. Điều gì xảy ra nếu tổng thống là người bất tài hay bất lương? Đây chính là hậu quả từ việc người dân chọn sai tổng thống. Nhiều người cho rằng quốc hội có thể luận tội và phế truất tổng thống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc phế truất một tổng thống chưa bao giờ là điều dễ dàng. Bằng chứng là tổng thống Mỹ Donald Trump đã bị luận tội hai lần trong nhiệm kỳ đầu tiên nhưng cả hai lần đều thoát tội nhờ được đảng Cộng Hòa bao che tại Thượng viện. Trong trường hợp chọn sai tổng thống thì cách duy nhất là chờ cho tổng thống hết nhiệm kỳ và bầu người khác. Nhưng như tôi đã nói lúc đầu, khả năng người dân tiếp tục chọn sai tổng thống là rất cao.

Trường hợp nghiêm trọng hơn là tổng thống có thể lạm quyền và trở thành một nhà độc tài. Khi đứng trước nguy cơ bị quốc hội luận tội, tổng thống có thể ban hành tình trạng khẩn cấp hoặc thiết quân luật một cách vô cớ để cấm mọi hoạt động chính trị, bao gồm cả quốc hội. Đây chính xác là những gì đã xảy ra ở Hàn Quốc. Tổng thống Yoon Suk Yeol đã tuyên bố thiết quân luật lúc nửa đêm và cho binh lính bao vây quốc hội. Mặc dù các nghị sĩ đã nhanh chóng trèo tường vào tòa nhà quốc hội và biểu quyết bãi bỏ thiết quân luật ngay trong đêm thì Hàn Quốc cũng đã phải trải qua vài tháng khủng hoảng chính trị trước khi ông Yoon Suk Yeol bị phế truất.

Trái lại, trong chế độ đại nghị, nếu cần thay đổi thủ tướng thì quốc hội chỉ cần tổ chức một phiên bỏ phiếu bất tín nhiệm là xong. Nhưng trong mọi trường hợp thì thủ tướng sẽ chủ động từ chức để giữ thể diện. Thủ tướng cũng không thể tuyên bố thiết quân luật và cấm quốc hội hoạt động bởi vì bản thân thủ tướng cũng là một thành viên trong quốc hội. Một thí dụ là từ tháng 9 năm 2022 đến nay, tức là chưa đầy 3 năm mà nước Anh đã có đến 4 thủ tướng nhưng việc thay đổi thủ tướng diễn ra rất nhanh gọn và dễ dàng.

Đây cũng là lý do mà các nhà lãnh đạo độc tài rất thích chế độ tổng thống. Việc đầu tiên mà Hitler làm sau khi trở thành thủ tướng là thay đổi chế độ của nước Đức từ đại nghị thành tổng thống, để trở thành quốc trưởng. Một trường hợp khác là ông Ngô Đình Diệm, sau khi trở thành thủ tướng đã phế truất quốc trưởng Bảo Đại để trở thành tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Trong cuốn hồi ký “Bên giòng lịch sử”, linh mục Cao Văn Luận, một người rất thân cận với nhà họ Ngô, đã nhận xét ông Ngô Đình Diệm là người có óc độc tài. Thêm một thí dụ nữa là tổng thống Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ đã cho sửa đổi hiến pháp để biến Thổ Nhĩ Kỳ từ chế độ đại nghị thành chế độ tổng thống. Sau này, khi Việt Nam có dân chủ, nếu có lãnh đạo nào có ý định thay đổi thể chế từ đại nghị sang tổng thống thì người dân Việt Nam cần phải phản ứng thật mạnh mẽ.

Rủi ro cuối cùng chính là chế độ tổng thống làm suy yếu các chính đảng. Phương thức bầu cử trong chế độ tổng thống là cử tri cả nước bầu ra một người. Vì vậy, muốn trở thành tổng thống thì điều kiện trước tiên là phải thật nổi tiếng. Người làm chính trị lúc này không có thời gian để nghiên cứu và học hỏi bởi vì họ quá bận rộn trong các hoạt động gây tiếng vang để đánh bóng tên tuổi. Đối với họ, sự nổi tiếng là tất cả, và do đó phải xuất hiện trên truyền thông càng nhiều càng tốt trong khi việc nghiên cứu và thảo luận lại là những công việc mang tính chất thầm lặng. Chỉ sau khi đã trở thành tổng thống thì họ mới nghĩ đến chuyện thành lập đảng. Vấn đề là những đảng được lập ra sau khi đã cầm quyền không phải là những chính đảng đúng nghĩa mà chủ yếu gồm những phần tử cơ hội và vụ lợi. Tổng thống luôn luôn có một đảng rất lớn nhưng thường không có phẩm chất, bởi vì phần lớn là những phần tử xu nịnh. Đây là một thiệt hại lớn vì các chính đảng đúng nghĩa vừa là lò đào tạo ra nhân tài chính trị vừa là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến trên những vấn đề lớn đặt ra cho đất nước.

Trái với chế độ tổng thống, trong chế độ đại nghị thì người dân bầu cho một đảng thay vì một người. Do đó, điều kiện tiên quyết để ra tranh cử là phải thành lập đảng hoặc tham gia vào một đảng có sẵn. Một tổ chức chính trị đúng nghĩa là một tập hợp của những con người cùng chia sẻ với nhau một lý tưởng và đồng ý với nhau trên một dự án chính trị trong đó trình bày những định hướng lớn cho đất nước.

Nói tóm lại, chúng ta không nên chọn chế độ tổng thống bởi vì rất khó để người dân có thể chọn đúng người, có thể gây ra sự xung đột giữa hành pháp và lập pháp, dễ đưa đến lạm quyền và độc tài, và cuối cùng là làm suy yếu các chính đảng. Không phải ngẫu nhiên mà cả 3 nước thất bại là Nga, Belarus, và Ukraine đều là những chế độ tổng thống.

Các bạn nghĩ sao về chủ đề này? Vui lòng để lại ý kiến dưới phần bình luận.

Nguyễn Trần Đặng

👉 Theo dõi kênh tại đây

About the author