Cung cách hành xử của người lãnh đạo trong các thời biến lịch sử (I) (Lê Quế Lâm)

Triều đại nhà Nguyễn, chế độ phong kiến cuối cùng của nước ta, khởi đầu từ năm 1802 khi vua Gia Long thống nhất sơn hà. Đặng Trần Thường (1759-1816) sau khi phò tá vua Gia Long giành đưọc toàn bộ quyền lực, ông đã đưa người bạn thuở hàn vi là Ngô Thời Nhiệm (1746-1803), vốn là bầy tôi của hoàng đế Quang Trung, ra trước Văn Miếu Hà Nội để hành tội. Tội gì? Có phải tội của một nho sinh lỗi đạo với Thánh hiền, đứng ra hợp tác ngụy Tây Sơn? Cả hai cùng sinh quán Hà Đông, đều là sĩ phu đất Bắc, song vì hoàn cảnh đất nước nhiễu nhương trong thời Nam Bắc phân tranh, nên chí hướng khác nhau. 

Để hạ nhục người bạn năm xưa, Đặng Trần Thường đưa ra câu đối buộc đối thủ, nay đã sa cơ phải đối đáp lại: “Ai công hầu ai khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai”. Ông nghĩ rằng câu đối hóc hiểm, chỉ vỏn vẹn 13 chữ song có đến năm chữ ai, và chữ trần là tên lót của ông, thì đối thủ, dù là sĩ phu nổi tiếng, học rộng hiểu nhiều lại lớn hơn mình 13 tuổi, thì làm sao có thể đối lại nổi! Đó là thái độ kiêu ngạo của một kẻ hãnh tiến gặp thời để hạ nhục người bạn cũ… Nhưng họ Đặng đã lầm, Ngô Thời Nhiệm ung dung đáp lại: “Thế chiến quốc thế xuân thu, gặp thời thế thế thời phải thế”. Câu đối đáp cũng 13 chữ với 5 chữ thế và chữ thời là tên lót của mình. Kẻ tôi thần của Nguyễn Huệ – người đã giương ngọn cờ chính nghĩa “phù Lê diệt Trịnh” để khôi phục cơ nghiệp nhà Lê và sau đó làm nên chiến sử oai hùng: Đại phá quân xâm lược Mãn Thanh. Danh sĩ họ Ngô đã lấy lịch sử chiến tranh để bày tỏ cách hành sử của kẻ sĩ. Thử hỏi, minh chủ của Đặng Trần Thường – Thái tổ nhà Nguyễn có thành tích gì, nếu không muốn nói đã dựa vào Pháp để tạo nên cơ nghiệp?

Hai câu đối trên đã đi vào lịch sử. Ngoài giá trị văn học, đối nhau thật chỉnh cả ý lẫn lời, nó còn thâm thúy về cách xử thế của người làm chính trị, về nhân cách của những người lãnh đạo để hậu thế học hỏi. Xưa nay thời thế, nhất là thời loạn, thắng bại là lẽ thường tình, thời thế tạo anh hùng. Nhưng có mấy ai biết hành sử thích nghi với tình thế, hầu mang lại lợi ích cho quốc gia dân tộc? Ai hơn ai là ở điểm này.

*

Một trăm bốn mươi năm sau, vào thời cận đại, đất nước ta bắt đầu chuyển mình bước vào một thời đại mới trong thời Xuân Thu Chiến Quốc tân thời, diễn ra cuộc xung đột, tranh hùng tranh bá giữa các cường lực: Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Cộng sản Liên Sô, Quốc xã Đức, Phát xít Ý, Quân phiệt Nhật và Cộng sản Trung Hoa. Tháng 9/1939 Đại chiến Thế giới lần thứ hai bùng nổ. Năm 1940 ở Âu châu, nước Pháp đã bị nước Đức thôn tính. Ở châu Á, Nhật đổ quân vào Đông Dương. Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chánh, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài trong 83 năm qua (1862-1945). Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam, vua Bảo Đại cử cụ sử gia Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Từ khởi điểm này, những người lãnh đạo đất nước đã thực hiện lời của tiền nhân “gặp thời thế thế thời phải thế”, tùy theo cái nghiệp của họ: quốc gia hay cộng sản.

Cụ Trần Trọng Kim sinh năm 1883, sau 31 năm làm việc trong giáo giới, đến năm 1942 mới được về hưu. Dù đã nghỉ hưu, tuổi cao sức yếu, song vì trách nhiệm đối với nước, cụ không thể chối từ khi vua Bảo Đại giải bày: “Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng minh cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chinh phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho dân nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước”. Âu đó cũng là định số, một nhà giáo đức độ, tác giả các quyển Việt Nam Giáo Khoa Thư, chứa đựng những bài học luân lý đạo đức, trở thành vị thủ tướng đầu tiên của nước nhà vừa được độc lập.

Nhận trọng trách thủ tướng, cụ Trần Trọng Kim công bố chương trình hành động của chính phủ: “Việc thứ nhất là làm sao đạt cái hy vọng của quốc dân Việt Nam khiến cho Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập, khôi phục trạng thái từ xưa và lo toan cho ngày càng mạnh mẽ toàn vẹn. Việc thứ hai là lo giải quyết vấn đề gạo ăn, vì trước hai vấn đề chính trị và văn hóa cốt yếu nhất là vấn đề gạo ăn. Việc thứ ba là kiến thiết tâm lý dân tộc Việt Nam mà phương pháp tiến hành trước tiên là phải cải thiện phương pháp giáo dục, chấn hưng thanh niên, vận động và tìm cách đè nén những tổ chức không chính đáng cốt khiến cho tinh thần quốc gia của nhân dân được bền vững”.

Trong tuyên cáo gởi quốc dân, nội các Trần Trọng Kim cho biết mục đích mà chính phủ hết sức theo đuổi là “hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố độc lập của quốc gia và gây mạnh cái tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội“. Chính phủ sẽ “xóa bỏ những hình án bất công để những người ái quốc còn bị giam cầm trong lao ngục có thể tùy tài sức mà tham dự vào công cuộc kiến thiết quốc gia”. Riêng nạn tham nhũng là cái tệ được dung túng từ trước, nay nước nhà đã bước vào một kỷ nguyên mới, nội các Trần Trọng Kim chủ trương “cần phải trừ cho tiệt” tệ nạn này.

Ngoài ra, chính phủ Trần Trọng Kim còn phải lo đối phó với một vấn đề hết sức nan giải là nạn đói của nhân dân. Để tích trữ lương thực phục vụ chiến tranh và nuôi hàng trăm ngàn quân lính Nhựt, chính quyền Pháp ra lịnh các phủ huyện thu gom thóc gạo gây ra nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nước nhà. Chỉ trong vòng nửa năm từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 tại Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã có 2 triệu người chết đói. Trần Trọng Kim thành lập Bộ Tiếp tế phụ trách việc vận tải thóc gạo từ Nam ra Bắc, song việc tiếp tế cứu đói không đạt kết quả vì chiến tranh khốc liệt, đường xe lửa hư hỏng không xử dụng được, còn tàu thuyền thì bị đánh đắm. Dân chúng quá đói, phẫn uất và sẵn sàng hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh nổi dậy chống chính quyền.

Sau khi Nhật đảo chánh Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập một buổi họp ở Đình Bảng Bắc Ninh. Họ nhận định “tình hình đã chín muồi do việc khủng hoảng chính trị, quân thù không rảnh tay đối phó, nạn đói khủng khiếp làm cho dân chúng oán ghét chính quyền và cuối cùng Đồng minh sẽ vào Đông Dương đánh Nhật. Đó là ba điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền”. Để chuẩn bị khởi nghĩa, Mặt trận Việt Minh đề ra khẩu hiệu “phá kho thóc giải quyết nạn đói” và vạch cho dân chúng thấy rằng “muốn sống còn thì phải đoàn kết đấu tranh. Muốn phá kho thóc thì phải làm cách mạng, đi theo Việt Minh, gia nhập các Hiệp hội Cứu quốc thành lập các đội tự vệ tự võ trang cho mình và đấu tranh quyết liệt với quân thù, vùng lên đánh đuổi quân thù giành chính quyền về tay nhân dân”.

Những người cộng sản khẳng định con đường duy nhất giải phóng dân tộc là con đường Cách mạng bạo lực của Lenin, nên cán bộ cộng sản coi việc phá kho thóc là cơ hội sách động dân chúng nổi dậy đình công, bãi sở, bãi chợ, bãi khóa xuống đường biểu tình thị uy sức mạnh của quần chúng trong khi lực lượng vũ trang làm nồng cốt núp vào đó để cướp chính quyền.

Trong hơn bốn tháng làm thủ tướng, trong bối cảnh lịch sử vô cùng đen tối, song cụ Trần Trọng Kim đã có những đóng góp lớn trong việc xây dựng nền móng quốc gia trong tương lai. Cụ chấn chỉnh nền giáo dục quốc gia, tìm cách giáo hóa nâng cao trình độ dân trí, giữ được đức tính của dân tộc. Học trò ngay từ nhỏ ở các lớp đồng ấu, dự bị và sơ đẳng bậc tiểu học đã được rèn luyện đạo đức lễ nghĩa, được học trong các bài trong sách Luân lý Giáo khoa thư do cụ viết và sách Quốc văn Giáo khoa thư do cụ và các ông Nguyễn văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận cùng soạn thảo.

Về hành chánh nội trị, ở các địa phương cụ lập ra những hội nghị tư vấn, chọn những người lịch duyệt có học ra giúp các cơ quan hành chánh trong việc cai trị. Hội nghi tư vấn ở các địa phương sẽ chọn những người xứng đáng thành lập một hội đồng toàn quốc, tức Viện Dân biểu, để giúp chính phủ trong việc cải tổ guồng máy chính trị quốc gia và thảo luận một dự án về Hiến pháp, đợi đến khi có Quốc hội Lập hiến sẽ đem ra thảo luận.

Để thu hồi toàn bộ lãnh thổ về một mối, cụ đã tranh đấu đòi Nhật chấm dứt chế độ bảo hộ ở Bắc Kỳ. Cụ bổ nhiệm tổng đốc Phan Kế Toại có tiếng là người thanh liêm làm Khâm sai Bắc Bộ. Còn ở Nam Kỳ, mãi đến khi sắp bại trận, Nhật mới chịu trả lại cho Việt Nam, cụ đề nghị vua Bảo Đại cử ông Nguyễn Văn Sâm làm khâm sai Nam Bộ. Cụ công bố đạo dụ qui hoàn Nam Bộ vào Việt Nam, hủy bỏ hoàn toàn những hiệp ước bất bình đẳng mà triều đỉnh Huế đã ký với Pháp năm 1862 và 1874. Hoàn thành nhiệm vụ trọng đại này, cụ xin từ chức nhưng vua Bảo Đại không đồng ý, vì đất nước bước vào một bước ngoặc mới cực kỳ phức tạp, dân tộc cần có những người lãnh đạo đức độ vì dân vì nước như cụ.

Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng, tình hình Việt Nam bước vào một ngõ rẽ quan trọng. Theo quyết định của Đồng minh, Quân đội Hoàng gia Anh và Trung hoa Quốc dân Đảng sẽ đổ bộ vào Đông Dương giải giới Nhật và tổ chức công việc chính trị cho các nước Đông Dương. Ngày 17/8/1945, Charles de Gaulle, Thủ tướng chính phủ lâm thời Pháp bổ nhiệm Tướng Leclerc làm Tổng tư lịnh Quân đội viễn chinh Pháp và Đô đốc Thierry D’Argenlieu làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương.

Quân Pháp chuẩn bị ráo riết nhưng chưa đủ lực lượng phải chờ quân Anh vào giúp sức để khôi phục lại chủ quyền ở Đông Dương. Lúc bấy giờ, tướng Mountbatten, Tư lịnh Quân lực Hoàng gia Anh ở Viễn Đông cũng muốn giúp Pháp trở lại Đông Dương vì đó là chủ trương của Thủ tướng Churchill tại hội nghị Le Caire năm 1943. Biết được ý định của Pháp, Bảo Đại liền gởi thư lưu ý Charles de Gaulle: “Để bảo vệ quyền lợi và ảnh hưởng tinh thần ở Đông Dương, Pháp nên thành thật công nhận nền độc lập của Việt Nam, đồng thời từ bỏ mọi ý định tái lập chủ quyền cùng nền thống trị Pháp tại đây dưới bất cứ hình thức nào. Chúng tôi rất dễ dàng thỏa thuận với người Pháp, chúng tôi mong được làm người bạn thân của nước Pháp nếu nước Pháp đừng tỏ ra muốn trở lại địa vị làm thầy”.

Ở biên giới Hoa Việt, Lực lượng Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) đang theo chân quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng trở về nước giành chính quyền. Tại Tân Trào (Thái Nguyên) từ 13 đến 15/8/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương tước vũ khí Nhật. Chủ trương của Hồ Chí Minh là giành chính quyền từ tay Nhật và Chính phủ Trần Trọng Kim, ông sẽ đứng ở địa vị chủ nhà mà tiếp quân Đồng minh.

Ngày 16/8/1945, Hồ Chí Minh triệu tập Quốc dân Đại hội, có 60 đại biểu tham dự trong số 100 người được mời. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản, thông qua 10 chánh sách của Việt Minh: giành chính quyền, xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ban bố những quyền công dân như nhân quyền, tài quyền, dân quyền, các quyền tự do dân chủ (tín ngưỡng, ngôn luận, hội họp…) dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền.Đại hội Quốc dân cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Trước các biến động lịch sử đe dọa sự sống còn của nền độc lập quốc gia, Trần Trọng Kim cải tổ nội các, thành lập chính phủ lâm thời và ra tuyên cáo với quốc dân “toàn thể Nội các chúng tôi nhất quyết không lùi bước trước một sự khó khăn nào cả để làm tròn sứ mạng là kiến thiết quốc gia, củng cố nền độc lập của tổ quốc. Muốn đạt được mục đích ấy, chúng tôi vẫn hợp tác chặt chẽ với các nhà đương chức Nhật Bản và chúng tôi không bao giờ quên rằng quân Nhật giải phóng cho ta ra ngoài cái áp chế của ngoại quốc“.

Để củng cố sức mạnh nói chuyện với quân Đồng minh sắp vào tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật, Trần Trọng Kim kêu gọi các viên chức nhà nước, các đảng phái quốc gia “thống nhất lực lượng sau lưng chính phủ để bảo vệ nền độc lập, đừng để bị tròng ách nô lệ một lần nữa“.

Ngày 17/8/1945, hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tướng Trần Trọng Kim, Tổng hội công chức tổ chức một cuộc biểu tình khổng lồ ở công trường Nhà hát lớn Hà Nội, có 15 vạn người tham dự để ủng hộ chính phủ lâm thời. Lợi dụng khí thế sôi nổi của cuộc biểu dương sức mạnh nhân dân lần đầu tiên sau 80 năm mất nước, cán bộ Việt Minh do Xứ ủy Cộng sản Bắc Kỳ chỉ đạo, bất thần chiếm lấy diễn đàn cuộc mít tinh. Họ báo tin Phát xít Nhật đã đầu hàng, trình bày tóm tắt chủ trương của Việt Minh, kêu gọi nhân dân ủng hộ Mặt trận Việt Minh, đả đảo chính phủ Trần Trọng Kim là bù nhủ tay sai Nhật, và chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Dân chúng Việt Nam từ khi bị thực dân Pháp đô hộ, khát vọng của họ là độc lập tự do. Nay họ nghe Việt Minh tuyên truyền là Việt Nam đã được Đồng minh giúp đỡ sẽ độc lập hoàn toàn”, họ lại nghe nói “Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc”, do đó ai cũng tin theo, ngay những đội Thanh niên Tiền tuyến do chính phủ lập ra cũng có ý ngã về Việt Minh.

Hai hôm sau, sáng sớm ngày 19/8/1945, cán bộ Việt Minh huy động hàng vạn nông dân ngoại thành và các huyện mang gây gộc, tầm vong và ít khẩu súng tiến vào nội thành dự cuộc mít tinh do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Các đoàn tự vệ cứu quốc tập họp kéo đi với khí thế sẵn sang chiến đấu, hô hào dân chúng khởi nghĩa thành lập chính quyền nhân dân. Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình vũ trang, dân chúng có các đơn vị chiến đấu đi đầu chia thành nhiều đoàn tỏa đi chiếm Phủ Khâm sai, trại Bảo an binh, Sở Công an và các cơ quan chính phủ. Chiếm được Phủ Khâm sai, Việt Minh dùng điện thoại kêu gọi các tỉnh trưởng và thị trưởng Hải Phòng, Hà Đông, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định đầu hàng.

Sau khi Việt Minh chiếm được chính quyền ở Hà Nội, một số đoàn thể thanh niên và các giới trí thức ở Bắc Bộ gởi điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Trần Trọng Kim trình bày cho Bảo Đại thấy rằng dân chúng đã bị Việt Minh tuyên truyền nên họ ủng hộ Việt Minh và đang hăng hái tham gia cách mạng. Cụ khuyên Bảo Đại nên thoái vị ngay để cho Việt Minh “nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước nhà“. Ngày 25/8/1945 Bảo Đại xuống chiếu thoái vị và tuyên bố “Trẫm có thiết gì ngôi vua đâu, miễn là Việt Nam giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn làm người dân của một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ“.

Trong chiếu thoái vị ngày 25/8/1945, vị vua cuối cùng triều Nguyễn viết: “Hạnh phúc của dân Việt Nam – Độc lập của nước Việt Nam. Muốn đạt đưọc mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố sẳn sàng hy sinh tất cả. Trẫm muốn sự hy sinh của Trẫm phải bổ ích cho tổ quốc lúc này là sự đoàn kết toàn thể quốc dân. Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8, trong giờ phút nghiêm trọng này, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc bộ lên quá cao, nếu Trẫm cứ ngồi yên thì không thể nào tránh khỏi nạn Nam Bắc phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận tiện cho người lợi dụng. Mặc dầu làm vua trong 20 năm, mới gần gủi dân được mấy tháng chưa làm được gì lợi ích cho quốc dân như lòng Trẫm muốn. Nay Trẫm cương quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một chính phủ dân chủ cộng hòa.

Trao quyền cho chính phủ mới, Trẫm chỉ mong ước có 3 điều: 1- Đối với tông miếu và lăng tẫm của liệt thánh, chính phủ mới nên xử trí thế nào cho có sự thể. 2- Đối các đảng phái đã từng tranh đấu cho nền độc lập quốc gia, nhưng không đi sát với phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hòa xử trí để các phần tử ấy có thể giúp vào việc kiến thiết quốc gia và chứng tỏ rằng chính phủ dân chủ cộng hòa nước ta đã xây đắp dựa trên sự đoàn kết toàn thể quốc dân. 3- Đối với quốc dân, Trẫm khuyên tất cả các giai cấp, các đảng phái, cả người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ cộng hòa, giữ vững nền độc lập của nước. Còn về phần Trẫm, từ nay trẫm lấy làm vui được làm dân một nước độc lập”.

Trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, Trần Trọng Kim cho biết lúc bấy giờ người Nhật có đến báo với cụ “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay. Nếu Chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân đội Nhật giúp, quân Nhật có thể giữ trật tự“. Nhưng cụ nghĩ rằng “quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình, còn nghĩa lý gì nữa, vả lại mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà“, nên cụ từ chối không nhận sự giúp đỡ của Nhật.

Ngày 28/8/1945, Hồ Chí Minh thành lập gồm 15 bộ trưởng trong đó hai phần ba là thành phần Cộng sản. Cựu hoàng Bảo Đại nhận lời làm Cố vấn tối cao. Bốn ngày sau, tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cuối năm 1945, Pháp trở lại Đông Dương thương thảo với những người bản xứ để từng bước trao trả độc lập cho các xứ thuộc địa. Đó là chủ trương giải trừ chế độ thực dân của Liên Hiệp Quốc vừa được thành lập và Pháp là 1 trong 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An.

Pháp đã ký Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 với ông Hồ Chí Minh, công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chánh riêng, và là một thành phần của Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Để tiến tới một hiệp ước chính thức, Việt Nam được độc lập hoàn toàn, từ đầu tháng 6/1946 cuộc đàm phán tiếp diễn ở Fontainebleau (Paris), ông Hồ cũng sang Pháp để theo dõi hội nghị.

Lúc bấy giờ sự xung đột giữa Liên Xô và Hoa Kỳ (Chiến tranh Lạnh) đã manh nha bộc phát, Stalin kêu gọi các phần tử được Moscow đào tạo, dấy lên các cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc để giải phóng dân tộc. Từ đầu thập niên 1920, ông Hồ Chí Minh đã trở thành ủy viên Quốc tế cộng sản, vì cái nghiệp cộng sản, ông phải thi hành chỉ thị của Stalin. ngưng các cuộc thương thảo với Pháp, trở về nước và phát động toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946.

Thất bại với ông Hồ Chí Minh, chiến tranh bùng nổ, Pháp hướng về cựu hoàng Bảo Đại. Tháng Giêng năm 1947, Cousseau -đại diện Cao ủy Pháp ở Đông Dương đến Hương Cảng tiếp xúc với cựu hoàng và cựu thủ tướng Trần Trọng Kim. Cousseau nói rằng “Ủy viên Cao cấp Pháp ở Đông Dương muốn điều đình để đem lại hòa bình, nhưng vì Việt Minh lừa dối, mới có chiến tranh, thiệt hại cho cả hai bên. Nay, nếu có những người quốc gia đứng đắn đứng ra điều đình thì nước Pháp sẽ sẳn sàng nhượng bộ”. Cụ Trần Trọng Kim trả lời: “Việc điều đình bây giờ muốn thành công thì phải được toàn dân ưng thuận mới được. Mà nay đa số người dân đã theo Việt Minh, đứng vào mặt trận kháng chiến, tất là phải làm thế nào cho dân vừa ý mới mong có kết quả. Nước Pháp phải trả lại cái quyền độc lập cho nước chúng tôi và cho nước chúng tôi thống nhất từ Nam ra Bắc”.

Sau đó, Trần Trọng Kim thảo luận với cựu hoàng và kê ra 7 điều sau đây trao cho Cousseau: -Lập lại nền thống nhất của Việt Nam như các triều trước đời Tự Đức. -Nước Việt Nam chưa độc lập hẳn thì ít ra cũng được hoàn toàn tự trị. -Định rõ địa vị Việt Nam trong các nước Liên hiệp Pháp. -Việt Nam phải có quân đội quốc phòng độc lập. -Việt Nam có các cơ quan tài chính của một nước tự chủ. -Pháp phải định một cái hạn trong mấy năm sẽ cho Việt Nam độc lập hẳn. -Việt Nam có đại diện ngoại giao với các nước ở Á Đông và các nước khác

Đầu năm 1948, Bảo Đại cử tướng Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng Cộng hòa Nam Kỳ làm thủ tướng lâm thời quốc gia Việt Nam thảo luận với Emile Bollaert -Cao ủy Pháp ở Đông Dương về những yêu cầu của cụ Trần Trong Kim đã trao cho Cousseau năm trước. Cuối cùng, qua hiệp ước Élysée ngày 8/3/1949 giữa tổng thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại, Pháp đã công nhận nước Việt Nam thống nhất và độc lập trong khối Liên hiệp Pháp.

Vào thời điểm này, cụ Trần Trọng Kim đã di chuyển từ Sài Gòn lên Nam Vang. Trong thời gian lưu trú ở đây, mỗi khi trời mát mẻ, chiều đến cụ chống gậy ra đứng cạnh bờ sông nhìn nước chảy, mà nghĩ cuộc đời cũng xoay vần trôi nổi có khác gì dòng nước chảy xuôi. Cụ nhớ đến câu cổ nhân đã nói: “Hiếu danh bất như đào danh, đào danh bất như vô danh”. Muốn có danh không bằng trốn danh, trốn danh không bằng không có danh. nhưng mình đã trót đeo lấy cái danh vào mình, thì phải tìm cách trốn danh vậy. Danh với lợi ở đời là những cái mồi nó dử mình vào cậm bẫy để hành hạ cái thân mình, chung quy chỉ là mộng ảo, chẳng có gì là thực, giống như người đóng tuồng ra sân khấu, nhảy múa nhọc mệt rồi hết trò, đâu lại vào đấy.

Thời gian nhàn rồi, cụ dở quyển nhật ký ra xem rồi viết cuốn Một Cơn Gió Bụi. Ở tuổi cuối đời, cụ Trần Trọng Kim – người làm chính trị bất đắc dĩ – đã trở lại thiên chức viết sử. Cụ đã viết quyển Sử Lược Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến năm 1920 vào thời Pháp thuộc. Nay cụ viết tiếp lịch sử dưới dạng hồi ký trong giai đoạn từ năm 1943 đến năm 1949 với tư cách một nhân chứng lịch sử.. Đây là buổi giao thời, chế độ thực dân vừa cáo chung, ông vua cuối cùng của triều đại phong kiến đã thoái vị, chuyển sang chế độ cộng sản.

Tựa đề của quyển hồi ký là Kiến-Văn-Lục, ghi những việc cụ đã làm và chứng kiến trong 6 năm từ 1943 đến 1949, “song vì những việc ấy có lắm việc truân chuyên và nhiều nỗi đoạn trường” nên cụ đặt nhan đề là Một Cơn Gió Bụi cho hợp cảnh.

Một cơn gió bụi tưởng sẽ trôi qua trong chốc lát, nào ngờ nó bắt đầu một trận phong ba bão táp khi chế độ thực dân và phong kiến chấm dứt chuyển sang chế độ cộng sản. Từ đó đất nước trải qua 3 trận chiến kinh hồn kéo dài gấp 7 lần trận đại chiến thế giới lần thứ hai. Thế chiến II kéo dài 6 năm từ 1939 đến 1945, còn chiến tranh Việt Nam bắt đầu từ cuối năm 1946 khi ông Hồ Chí Minh phát động toàn quốc kháng chiến, kéo dài đến 1991 khi chiến tranh lạnh chấm dứt. Thử kiểm điểm trong 42 năm chiến tranh, đất nước và dân tộc gặp biết bao nhiêu là tang thương, chết chóc.

Lê Quế Lâm

(Còn tiếp phần II)

About the author