Suy thoái môi trường và lề hóa dân bản địa ở Tây Nguyên (Phong Cầm)

Bài viết phân tích mối liên hệ giữa suy thoái môi trường và sự lề hóa của người bản địa tại Tây Nguyên, dựa trên nghiên cứu của nhà nhân học Ole Bruun. Khám phá cách các chính sách bảo tồn và phát triển ảnh hưởng đến quyền lợi của sắc tộc thiểu số và môi trường sinh thái khu vực.

Độc quyền về diễn ngôn chiến tranh, chính quyền tuyên bố đã giải phóng Tây Nguyên vào năm 1975. Tuy nhiên, các trận chiến vẫn diễn ra ở vùng này trong những năm sau đó. 

Những người dân bản địa bị áp đặt các chính sách đồng hóa. Đồng thời, các công ty lâm nghiệp quốc doanh ồ ạt tiến vào vùng này và khai thác các tài nguyên quý hiếm vào những năm 1980. Những chính sách bảo tồn mới có sự trợ giúp của các nhà tài trợ để xây dựng vườn quốc gia hay khu bảo tồn vào thập niên 1990 lại góp phần lề hóa các sắc tộc bản địa.

Trớ trêu thay, những diễn ngôn xanh của nhà nước, sau cùng, lại diễn ra đồng thời với sự suy thoái nghiêm trọng về môi trường ở vùng cao, sự mất mát về đa dạng sinh học và sinh kế của người dân thuộc nhóm thiểu số vốn đã luôn gặp bất lợi và bất hòa với các chính phủ khác nhau của người Kinh.

Đó là một phần kết quả nghiên cứu của nhà nhân học người Đan Mạch Ole Bruun, hiện là giáo sư trường Đại học ​Roskilde​, người đã dành nhiều năm nghiên cứu các vấn đề môi trường ở Trung Quốc và Việt Nam. 

Ông giải thích hiện tượng này trong chương sách “Collusion verte et privation ethnique dans les hauts plateaux du centre du Vietnam” (tạm dịch: Sự cấu kết nhân danh sinh thái và nỗi cơ cực của người thiểu số ở Tây Nguyên) được in trong cuốn “La combustion du monde : peuples autochtones, conservation et marchandisation de la nature en Asie du Sud et du Sud-Est” (Đốt cháy thế giới: Các sắc tộc bản địa, bảo tồn và thương mại hóa thiên nhiên ở Nam Á và Đông Nam Á), xuất bản năm 2024. [1]

Công trình này là kết quả của nhiều năm nghiên cứu thực địa của ông nhằm phân tích những mâu thuẫn lâu đời giữa người dân bản địa và các cơ quan chức năng Việt Nam ở vùng Tây Nguyên thông qua ví dụ cụ thể là Vườn Quốc gia Yok Don thuộc tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. 

Chính sách di cư cưỡng bức

Cũng giống như ở nhiều nơi trên thế giới, quá trình xanh hóa các nguồn năng lượng tại Việt Nam đã và đang mở rộng tới các vùng ngụ cư của nhiều sắc tộc bản địa. Cụ thể là các chính sách phát triển lâm nghiệp và xây dựng thủy điện (hơn 700 công trình) mang tính tập trung cao và ở quy mô lớn. Các chính sách đền bù mang tính cưỡng ép, qua loa đại khái và đậm tính kỳ thị người sắc tộc thiểu số.

Trong bài viết, tác giả đề cập đến hai khía cạnh của chính sách di dân cưỡng bức: buộc người Thượng rời xa mảnh đất của họ và đưa người Kinh đến khai thác vùng kinh tế mới (thập niên 80-90). 

Hoạt động khai thác và tàn phá môi trường diễn ra trầm trọng nhất là vào giai đoạn 1980 – 1990, đặc biệt là sau Đổi mới, khi người Kinh được đưa đến nhân danh phát triển kinh tế. Chính sự bức xúc dồn nén do bị tước đoạt đất đai và tự do tôn giáo (đặc biệt là đối với người Thượng chuyển đạo sang Tin lành) đã dẫn tới việc người bản địa biểu tình đòi trả lại đất của tổ tiên và thậm chí kêu gọi độc lập vào đầu thập niên 2000. Lực lượng an ninh đã đàn áp dã man người Thượng và nhiều trong số đó đã phải tị nạn ở Campuchia và Thái Lan.

​​Thực ra, việc đưa người đến ở các vùng Tây Nguyên mà theo tác giả là một chính sách mang tính thuộc địa đã có từ thập niên 50 dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng hòa, nhằm làm giảm áp lực dân số ở các vùng duyên hải.

​​Những lời hứa tôn trọng quyền tự trị của các sắc tộc ở Tây Nguyên không được bảo đảm. Một loạt các chính sách quốc gia về biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên và những bộ luật, quy định về môi trường chỉ là cái cớ để can thiệp vào các vùng đất vốn gắn liền với sự sinh tồn của người bản địa. Ngoài các doanh nghiệp nhà nước thì các công ty tư nhân có sự hậu thuận của nhà nước cũng nhúng tay vào quá trình khai thác này.

Nhiều vấn đề nhân quyền phức tạp 

Theo tác giả, chính quyền trung ương không để cho các nhà tài trợ quốc tế tiếp xúc với các khu vực có người dân bản địa. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội, nhà báo đều không được tự do nghiên cứu thực địa ở khu vực này (hoặc chỉ được phỏng vấn, đến thăm những nơi được chỉ định), khiến những vấn đề môi trường – nhân quyền khó có thể bị phơi bày. 

Những khu vực có người thiểu số bị kiểm soát chặt chẽ nhằm tránh sự quan sát hay can thiệp của người nước ngoài, bởi vậy mà các đại diện của các tổ chức quốc tế khó mà nắm được tình hình thực tế của việc triển khai các dự án do họ tài trợ.

Các vấn đề môi trường không tách rời các vấn đề nhân quyền khác ở Tây Nguyên. Trường học không dạy ngôn ngữ bản địa, khiến thế hệ trẻ không được tiếp thu văn hóa gốc của họ. Việc theo tôn giáo (Tin lành, Công giáo) bị coi là chứng tích của thời thuộc địa. Chính quyền người Kinh tìm cách thúc đẩy trồng rừng bằng mọi giá để có được tiền tài trợ từ các tổ chức quan tâm tới tài chính các-bon, mà không đoái hoài gì đến nhu cầu và truyền thống văn hóa của người dân, đặc biệt không ngừng “Kinh hóa” các cách làm nông nghiệp và cho rằng cách của người bản địa là “thô sơ, lạc hậu”.

Nếu chú ý kỹ thì sẽ thấy tôn chỉ của Vườn Quốc gia Yokdon (80% là từ ngân sách nhà nước và 20% từ các công trình thủy điện và tài trợ quốc tế) không phải là thuần túy về môi trường mà còn là để phục vụ nghiên cứu khoa học, bảo vệ biên giới quốc gia, và phát triển du lịch sinh thái.  

Các sắc lệnh của nhà nước cấm trồng trọt và sử dụng đất đai, trong khi đó lại cấp đất liên tục cho người di cư từ đồng bằng cũng như cho các nhà đầu tư địa ốc trong các khu vực vùng dự phòng của các công viên quốc gia. Các diễn ngôn nhà nước thường đổi lỗi cho người dân, lối canh tác lỗi thời và nạn phá rừng, và nói rằng đó cũng là nguyên nhân nhà nước lập ra các rừng quốc gia và khu bảo tồn.

Nhưng theo tác giả, sự sinh thái hóa (l’ecoligisation) mà cụ thể là việc xây dựng những khu bảo tồn chẳng hề giải quyết được các vấn đề đa dạng sinh học, nhưng có thể tăng tính chính danh của Đảng Cộng sản và chính quyền, giúp họ có được nguồn tài trợ và thắt chặt an ninh quốc gia.

Thế nhưng các nhóm lợi ích kinh tế và những mâu thuẫn nội bộ luôn cản trở việc thực thi các quy định về môi trường vốn đã thiếu và yếu. 

Mặc dù luật ngày càng nghiêm và cơ chế giám sát ngày càng chặt, nhưng tham nhũng vẫn khiến cho việc săn bắn, bẫy, buôn bán động  thực vật tiếp diễn ở mức báo động.

Theo luật thì việc hái lượm trong Vườn Quốc gia Yok Don là trái phép, nhưng điều này vẫn diễn ra thường ngày, theo quan sát của tác giả. 

Khoảng 75% các hộ dân mà tác giả phỏng vấn ở khu vực Yok Don được xếp loại nghèo hoặc rất nghèo. Những người Kinh bị điều đến thì được cấp ruộng làm nông, còn dân bản địa không được hưởng chính sách này, dù nơi đây là nơi chôn rau cắt rốn của họ.

Dịch bệnh COVID-19 khiến họ càng phải phụ thuộc vào rừng. An ninh lương thực và chất lượng của sống của họ ngày càng suy giảm do nguồn tài nguyên rừng ngày một cạn kiệt.

Và rồi, sự kỳ thị lại tiếp tục: vì không có ruộng, người bản địa lại phải tìm việc ở những môi trường hoàn toàn bất lợi cho họ. Họ phải rời xa văn hóa bản địa, lại phải làm việc với những người chủ là người Kinh trong khi tiếng Kinh chưa thành thạo. 

Chính quyền độc tài ở Trung Quốc và Việt Nam thường nhấn mạnh chống thuộc địa trong diễn ngôn, nhưng hành động của họ đối với những người bản địa cũng chính là một sự đô hộ, dù nhân danh môi trường và phát triển. Rõ ràng, mục tiêu bảo vệ đa dạng sinh học là chưa hề đạt được, không những vậy còn làm cuộc sống của người dân bản địa khốn khổ hơn. Tác giả gọi đây là “một chiến dịch thuộc địa hóa nội địa” (une offensive colonialiste interne). 

Phong Cầm

28/05/2025

Nguồn: luatkhoa.com

About the author