Nguy cơ tài phiệt chiếm đoạt đất nước khi Việt Nam đang trong một tình trạng khẩn cấp (Chu Tuấn Anh)

Hình ảnh biểu tình phản đối giới tài phiệt.

Những người doanh nhân đã làm ăn bất chính cần phải lưu ý rằng, khi Putin lên cầm quyền thì những nhà tài phiệt, vốn từng được Yeltsin dung dưỡng trong giai đoạn cuối của Liên Xô, đã bị triệt hạ một cách thô bạo để thay thế bằng những người thuộc phe Putin. Putin cũng sẽ tiếp tục thanh trừng những cá nhân tài phiệt nếu có sự chống đối nhỏ nhất. Tài phiệt hóa đất nước thì chẳng có gì vinh quang và cũng chẳng lấy một đảm bảo nào.

Chu Tuấn Anh

Tôi cảm thấy mình cần viết bài viết này không phải để quy chụp hay nhắm vào bất kỳ lực lượng tài phiệt nào hiện tại, và tôi tin rằng nếu có một tổ chức thực sự bài bản, lương thiện để vận động dân chủ cho đất nước Việt Nam, thì nhiều doanh nhân và tỷ phú cũng sẽ nhận thấy rằng những hành động thao túng chính trị hay lợi dụng một tình trạng khẩn cấp để trục lợi là rất nguy hại cho chính bản thân họ và cho đất nước. Họ vẫn sẽ có một chỗ đứng trong đất nước Việt Nam nếu mọi hoạt động kinh doanh từ nay được đặt trên một nền tảng lương thiện và trách nhiệm, trong trường hợp Việt Nam đi theo con đường dân chủ đa nguyên.

Tuy nhiên, việc tài phiệt thắng thế trong chính trị luôn là một xu hướng tự nhiên sẽ xảy ra khi những nhà lãnh đạo độc tài buộc phải đóng vai trò nhà cải tổ, và khi lực lượng chuyển tiếp thiếu bài bản nhanh chóng thất bại trong việc kiểm soát tình hình chính trị, kinh tế và kỳ vọng của người dân trong một khúc quanh mới của đất nước.

Trong bài viết “Chúng ta học được gì từ một cuộc chuyển hóa dân chủ thất bại?” vào năm 2019, tôi đã giải thích tại sao tiến trình dân chủ hóa ở Nga từng được biết đến như một khoảnh khắc đầy hy vọng và mong đợi — sự khởi đầu của một kỷ nguyên dân chủ mới, đánh dấu thời điểm dân chủ trở thành một đa số trên thế giới, đồng thời chấm dứt Chiến tranh Lạnh — để rồi khựng lại và trở thành một trong những chế độ tài phiệt núp bóng mô hình tổng thống chế hung bạo, không thua kém gì Liên Xô cộng sản. Trong đó, những thất bại kinh tế của Gorbachev (từ năm 1985–1991), được nối tiếp bởi sự vụng về của Yeltsin (1992–1999), đã khiến cho quá trình giải tư các tài sản công và các công ty quốc doanh bị thao túng — nhiều tài sản chỉ được bán với một mức giá tượng trưng — và từ đó, một lực lượng tài phiệt đã trỗi dậy, đảo ngược tiến trình dân chủ tại Nga:

Yeltsin tiếp tục cho tư nhân hóa lĩnh vực công từ thời Gorbachev, với hy vọng sự phát triển của tư nhân sẽ thúc đẩy nền kinh tế. Nhưng ông thậm chí còn không đưa ra một định nghĩa cụ thể về mặt luật pháp như “tư nhân hóa” hay “sở hữu” là gì và phải được tiến hành như thế nào? Quá trình tư nhân hóa này đã giải giáp toàn bộ hệ thống kinh tế chỉ huy dưới thời Liên Xô, nhưng sự cẩu thả của chính sách tư nhân hóa đã dẫn tới sự hình thành của một tầng lớp tư bản cơ hội, những kẻ nhanh chóng chiếm đoạt các khối tài sản mà trước đây thuộc về nhà nước. Giới tư bản này nhanh chóng bắt tay với quyền lực chính trị, trở thành cái móng vững chắc cho một chế độ độc tài mới của Nga.

Ảnh Yelstin và Gorbachev

Một nhóm tài phiệt đã thành công cướp bóc phần lớn tài sản xã hội trước những chính sách cởi mở và thị trường hóa thảm hại và vụng về, để rồi nhanh chóng bắt tay với Putin đưa nước Nga chính thức về một thể chế tài phiệt mafia.

Trong loạt bài viết “Tại sao là con đường Dân Chủ Đa Nguyên?”, tôi đã trình bày Con đường Dân Chủ Đa Nguyên như một giải pháp để Việt Nam không phải lựa chọn một giải pháp độc tài cá nhân ngụy trang Cộng Hòa Tổng Thống, hay một chế độ dân chủ nửa vời dạng tài phiệt. Và bài viết này sẽ nối tiếp bài viết năm 2019 và loạt bài viết “Tại sao là con đường Dân Chủ Đa Nguyên?” để làm rõ và cảnh báo những nguy cơ và quá trình tài phiệt hóa đất nước sẽ diễn ra như thế nào và vì đâu?

Nhóm tài phiệt đã khuynh đảo nước Nga thời Putin
Nhóm tài phiệt đã khuynh đảo nước Nga thời Putin

1. Nhu cầu cải tổ ở các chế độ độc tài

Khi đất nước đứng trước một cuộc khủng hoảng về ý thức hệ, đường hướng và khủng hoảng kinh tế, làm sâu sắc hóa các cuộc khủng hoảng xã hội, các chế độ thường có xu hướng đặt quyền lực vào tay một lực lượng công an hoặc quân đội như một phản xạ an ninh. Ngay cả khi lực lượng này có ý định đàn áp, và hành động theo một quán tính hay phản xạ đặc thù, thì lý trí và trách nhiệm trong việc tiếp quản một đất nước đang suy sụp, với những vấn đề phát sinh hàng ngày, buộc họ phải nhận ra rằng chế độ cần phải cải tổ theo hướng cởi mở nếu muốn tiếp tục tồn tại.

Những cuộc khủng hoảng này ở Việt Nam, tôi đã đề cập đến trong một số bài như “Con đường dân chủ đa nguyên là giải pháp cho một tình trạng khẩn cấp quốc gia” và “Người Việt Nam không cần lựa chọn một giấc mơ khiêm tốn và một cuộc đời trung bình”. Có rất nhiều lý do để nhắc đến trong cuộc khủng hoảng về chính trị – kinh tế – xã hội ở Việt Nam, nhưng chúng ta có thể giản dị đề cập đến hai nguyên nhân chính: một chế độ đã mục ruỗng, không còn lý tưởng nào và tham nhũng không còn có thể cứu chữa (điều này đã được ông Nguyễn Phú Trọng đề cập nhiều lần); và nhu cầu thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thấp để tiếp tục tăng trưởng trước một sự kỳ vọng ngày càng gia tăng từ quần chúng.

Việt Nam đã mở cửa để hội nhập, với những kỳ vọng ngày càng tăng cao từ quần chúng về một bối cảnh sung túc và các quyền con người dần được mở rộng. Nhưng họ cũng ý thức được rằng Việt Nam đang rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp với một bối cảnh thế giới đầy biến động (ở đây là sự triệt thoái của Mỹ và sự xét lại của làn sóng toàn cầu hóa xô bồ), do đó, cần có những thay đổi về thể chế chính trị và cơ cấu kinh tế để vượt qua. Một cuộc khủng hoảng kinh tế trực tiếp đang kéo đến càng khiến cho chế độ cầm quyền ý thức được bế tắc của mình.

Ở Liên Xô cũ thì chúng ta đều thấy mọi yếu tố này – một Liên Xô mà chủ nghĩa cộng sản đã chết, một đất nước kiệt quệ khi sa lầy tại Afghanistan, một nền kinh tế mắc phải bẫy thu nhập trung bình cao (khi ngấp nghé khoảng 9.900 đô la vào năm 1991, thời điểm mà Liên Xô tan rã), và bỗng chốc nhận ra rằng họ bắt buộc phải “diễn biến” dù muốn hay không.

Người lính Liên Xô ở Afghanistan những năm 1979.
Người lính Liên Xô ở Afghanistan những năm 1979.

2. Áp lực thời gian và những chính sách vô cùng tạm bợ

Sau một thời gian loay hoay nhận ra rằng đất nước mình không có nguồn đất hiếm nào để thực hiện tham vọng trở thành một “tiểu cường quốc về đất hiếm”, cũng không còn những nhà tài trợ cho các dự án dạng “Vành đai – Con đường” như đường sắt cao tốc, các hải cảng, các đặc khu kinh tế và những dự án cơ sở hạ tầng khác như điện hạt nhân — nhằm đẩy chi tiêu công và tạo ra một con số tăng trưởng GDP giả tạo mà tôi đã phân tích trong loạt bài “Chuyển đổi kinh tế để đi vào Kỷ Nguyên thứ hai” — thêm vào đó, nguồn FDI và nguồn thu từ ngoại thương sẽ giảm đáng kể do tác động của thương chiến; hai ông Tô Lâm và Phạm Minh Chính buộc phải nhìn nhận rằng cần khuyến khích kinh tế tư nhân, dù họ không đề cập tới việc sẽ làm thế nào để khuyến khích nó. Dù sao thì chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản rằng, để thúc đẩy kinh tế tư nhân cần phải giải tư một phần lĩnh vực công, bao gồm một số công ty quốc doanh, và đồng thời khuyến khích sự tự do kinh tế, đổi mới sáng tạo trong xã hội — điều mà thực tế khó hơn những gì họ tưởng!

Ở Liên Xô cũ, chúng ta cũng thấy hai trụ cột lớn là Perestroika (tái thiết) để đẩy mạnh sự cởi mở về kinh tế tư nhân giúp cho một số hoạt động kinh doanh tư nhân, và Glasnost (cởi mở, minh bạch) để cởi mở một số quyền tự do ngôn luận, và minh bạch hóa hoạt động của nhà nước như một liều thuốc trợ tinh thần để thúc đẩy kinh tế tư nhân. Dù những chính sách cải tổ kinh tế của Gorbachev cũng chỉ là những hành động rời rạc, nửa vời, và cẩu thả; nhưng về tinh thần thì ông ta đã đúng vì khuyến khích tư doanh cần đi kèm về cởi mở chính trị, điều mà cả hai ông Tô Lâm và Phạm Minh Chính vẫn chưa nói tới.

2.1 Nhìn lại những thất bại trong cải tổ kinh tế của Gorbachev và Yeltsin

Áp phích chương trình Perestroika và Glanost.
Áp phích chương trình Perestroika và Glanost.

Nói đến đây thì chúng ta cần một tường thuật chính xác để hiểu tại sao một người rất có bản lĩnh như Gorbachev, và một người cũng rất “sôi nổi” như Yeltsin, đã thất bại ê chề và đẩy nước Nga vào một giai đoạn độc tài mới. Từ đó, chúng ta tự cho mình câu trả lời cho câu hỏi: Những người như ông Tô Lâm và Phạm Minh Chính, hoàn toàn thiếu những bản lĩnh cần thiết ngoài việc họ không quá giáo điều, có thể thành công không?

Gorbachev đã ban hành chính sách Perestroika vào năm 1986, mở ra một cuộc cải tổ 6 năm của mình, vốn ban đầu là một cố gắng để trao các quyền quyết định về kinh tế – chẳng hạn như quyết định phương pháp sản xuất, tuyển dụng lao động, thu mua vật tư – và các quyền tự chủ từ Gosplan (Ủy ban Chỉ huy Kinh tế Trung Ương) xuống những địa phương và các xí nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên, Gorbachev chưa bao giờ có một dự án hay một nghiên cứu nào về kinh tế thị trường, và ông cũng không hiểu thế nào là kinh tế thị trường để thực hiện việc cải tổ đúng cách.

Trong chính sách cởi mở về kinh tế của Gorbachev, tuy những chủ doanh nghiệp có quyền tự chủ trong vấn đề chi tiêu, nhưng họ hoàn toàn không có quyền tư hữu. Do đó, họ cũng chỉ có thể hưởng một phần rất nhỏ từ lợi tức thu được từ việc bán hàng hóa, và thay vì có thể dùng lợi tức bán hàng để mua sắm vật tư và mở rộng sản xuất, họ đã phải vay nợ tín dụng từ nhà nước.

Chính quyền đã mang một tâm lý quản lý kinh tế tập trung để áp dụng cho kinh tế thị trường. Họ nhận ra rằng lạm phát thực đã cao hơn thực tế rất nhiều. Và mặc dù mức lương đã tăng nhưng cũng không bắt kịp đà lạm phát nếu thả nổi thị trường. Do đó, họ đã áp giá quy định cho từng mặt hàng để kiểm soát lạm phát thay vì theo giá của thị trường. Điều đó đã dẫn đến hiện trạng sản xuất đình đốn. Và khi nhu cầu tiêu dùng tăng cao, người dân đã phải xếp những hàng dài chỉ để mua nhu yếu phẩm. Tình trạng nguồn cung không đủ cho sức mua của người dân đã tạo ra một tâm lý bất mãn: Mức lương tuy tăng nhưng chất lượng sống của người dân vẫn không được cải thiện, vẫn là một tình trạng thiếu thốn, thiếu vật chất mà họ đã phải trải qua sau một giai đoạn dài dưới thời Xô viết.

Một nghiên cứu còn thuật lại sự việc trong lúc những người Nga chờ hàng giờ để mua rượu vodka, một gã hô to “Tao muốn bắn chết Gorbachev”, rồi bỏ chạy. Một giờ sau thì gã quay lại và muốn lấy lại vị trí xếp hàng chờ mua rượu. Nhưng hàng chờ thì đã dài hơn rồi.

Ảnh người dân Nga xếp hàng dài chờ mua Vodka và nhu yếu phẩm.
Ảnh người dân Nga xếp hàng dài chờ mua Vodka và nhu yếu phẩm

Một chi tiết nhỏ đó cũng đủ để nói ra đất nước đó đã sụp đổ về tinh thần và họ chán ghét đến đỉnh điểm những chính sách của Gorbachev, dù họ đã từng có một giai đoạn hưng phấn và tung hô ông. Gorbachev cũng biết rõ ông không thể giữ được chế độ lâu hơn nữa.

Vào năm 1991, GDP sụt giảm 1/6, và thâm hụt ngân sách chiếm đến ¼ GDP. Gorbachev đã phải chấp nhận in tiền cho các nhà máy hoạt động và để mua lương thực khi hệ thống thuế và hoạt động sản xuất sụp đổ. Họ đã buộc phải trình ra kế hoạch 500 ngày để chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường toàn diện – nghĩa là phải chấm dứt kiểm soát giá, tư nhân hóa các công ty quốc doanh, và mở cửa kinh tế. Dù vậy, kế hoạch đó chưa được thực hiện thì Liên Xô đã sụp đổ. Cũng cần phải nói đến những áp lực từ chi tiêu quân sự (chiếm tới 25% GDP) và nạn tham nhũng cũng đã tràn lan không thể kiểm soát được như những bóng ma dẫn dắt những cải tổ nửa vời của Gorbachev vào ngõ cụt.

Yeltsin tiếp quản nước Nga ly khai khỏi Liên Bang Xô Viết, nhưng cũng chẳng có một sự chuẩn bị nào và kế thừa một tình trạng đất nước đang trên bờ vực sụp đổ. Khi kinh tế thị trường được chấp nhận thì lạm phát bỗng tăng phi mã sau 6 năm dồn nén với chính sách kiểm soát giá. Vào năm 1993, họ phải in ra một lượng tiền chiếm tới 20% GDP để cứu các nhà máy khỏi sự sụp đổ. Khi quả quyết thoát ra khỏi liên bang Sô Viết, có lẽ Yeltsin không hẳn là không muốn duy trì một Liên bang Xô Viết hùng mạnh, mà đơn giản vì vào thời kỳ khó khăn, chẳng ai mong muốn chia sẻ với nhau những gánh nặng. Yeltsin buộc phải đưa Nga rút khỏi đế chế Xô Viết như một sự lựa chọn trong cảnh bần cùng. Cùng năm 1993, Nga cũng phải rút khỏi khối đồng tiền chung Rúp, vì các nước thuộc Liên Xô cũ đã lợi dụng việc in đồng Rúp để tiêu dùng, dẫn đến lạm phát. Khi lạm phát không còn được kiểm soát, các nhà máy rơi vào tình trạng hỗn loạn do không có khả năng trả lương cho công nhân, và những phúc lợi từ các nhà máy — vốn là nguồn việc làm lớn cho các công chức của Liên Xô với mức lương, chế độ nghỉ phép, nhà ở, đãi ngộ và hưu trí — cũng tan biến. Người dân chỉ còn biết chịu đựng cảnh thảm khốc nhất của “tư bản chủ nghĩa”. 

Sự cẩu thả trong chính sách và tâm lý “cứ mở ra thì sẽ có kết quả” đã dẫn đến những hỗn loạn chồng chéo và khủng hoảng trên nhiều ngành. Nhiều nhà máy, khu vực công nghiệp được chính quyền Yeltsin chấp nhận cho sụp đổ để tránh trở thành gánh nặng nợ nần và không phải tiếp tục đảm nhận vai trò phúc lợi khi họ không còn khả năng. Tình trạng nguy ngập xảy ra hàng ngày khi người ta phát hiện ra nợ giữa các nhà máy (thay vì giữa nhà máy và ngân hàng) đã trở nên trầm trọng và không có phương án giải quyết — dù mọi khoản nợ đều có giấy tờ ghi chép đầy đủ.

Vào năm 1995, Yeltsin khám phá ra rằng có thể ổn định tình hình thông qua các khoản vay nợ quốc tế để bù đắp. Và họ đã đi vay IMF bằng nguồn dầu mỏ và khí tự nhiên. Nhưng dù sao vay nợ cũng là vay những gì phải làm ra trong tương lai. Trong một khoản thời gian ngắn, lạm phát đã ổn định đã trở lại. Yeltsin, thay vì cấp tốc lên một phương án cải tổ và ổn định cấu trúc nền kinh tế, đã tiếp tục vay thêm để chi tiêu, để rồi đồng rúp sụp đổ vào năm 1998, kết thúc sự nghiệp chính trị của Yeltsin.

2.2   Tại sao Gorbachev và Yeltsin thất bại?

Chúng ta có thể nói nhiều về những vấn đề cụ thể tại sao họ thất bại. Chẳng hạn, Yeltsin tuy mở cửa và nhìn thấy 6 năm thất bại của Gorbachev, nhưng ông ta gần như đã không làm gì cả: một nền kinh tế thị trường không có luật tư hữu, không có mã số thuế cùng hệ thống thu thuế, không có luật phá sản, cũng chẳng có một chính sách cùng luật đấu giá tài sản nhà nước. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào một lý do chính liên quan đến thể chế nhiều hơn.

Một nền kinh tế tập trung chắc chắn không thể vận hành được, bởi vì một Ủy ban Kế hoạch Kinh tế làm sao có thể tính toán hàng trăm ngàn con tính thay cho doanh nghiệp và người dân? Việc cởi mở nền kinh tế và thực hiện kinh tế thị trường là điều tất yếu và không thể lảng tránh. Nhưng nó không thể được thực hiện bằng thói đánh liều từ cá nhân của người lãnh đạo, không nên được thực hiện bởi sự hô hào “chỉ bàn làm cấm bàn lùi” như ông Phạm Minh Chính vẫn thường nói. Kinh tế thị trường cần được đảm bảo bằng một nền tảng và một thể chế chính trị lương thiện, khi mà nhà nước không còn tham gia vào kinh tế tư nhân ngoại trừ các phạm vi thuế, chi tiêu công cộng và điều chỉnh khối lượng tiền tệ. Thuế để nhà nước có ngân sách làm nhiệm vụ của mình, bảo đảm an sinh và liên đới xã hội (Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai).

Chẳng hạn, kinh tế thị trường cần những cố gắng lớn về liên đới xã hội để bảo trợ xã hội, đầu tư vào giáo dục và y tế nhằm tránh những sự đổ vỡ trong dài hạn. Khi bắt đầu chuyển sang nền kinh tế tư nhân, cả Gorbachev và Yeltsin đã không nhận thấy rằng các phúc lợi của chế độ Liên Xô, tuy rất cồng kềnh và chỉ dành cho một thiểu số, nhưng dù sao, sự cáo chung của một chế độ cũng kéo theo sự sụp đổ của hệ thống phúc lợi. Họ đã không làm gì ngoài việc bàn giao lại vai trò cung cấp các phúc lợi cho các nhà máy — dù các nhà máy ấy đã được tư nhân hóa — trong khi lẽ ra đó phải là mối ưu tư của những người cầm quyền trong giai đoạn chuyển tiếp sang dân chủ, như một yếu tố bảo an cho kinh tế.

Sự vắng mặt của một cố gắng về thể chế đã khiến không có bất kỳ quyền nào liên quan đến luật tư hữu, luật cạnh tranh, các chuẩn mực trong vay nợ, hệ thống thuế theo kinh tế thị trường, luật thành lập doanh nghiệp và phá sản, cũng như luật đấu thầu và bán các tài sản công. Cả Gorbachev và Yeltsin thực hiện chính sách mở cửa kinh tế chỉ như một sự thả nổi mà thôi. Và trên tinh thần đó, lẽ ra cũng cần phải có một chính quyền dân chủ, cần xây dựng ngay một nền pháp trị trong thời gian ngắn để giải quyết những tranh chấp tất yếu sẽ xảy ra; cần có một lực lượng địa phương để xử lý sự bất mãn và những bất cập trong việc tiếp cận các quyền của người dân. Chính vì thiếu tất cả những nền tảng này, họ đã mở bung nền kinh tế chỉ để thường xuyên rơi vào các tình trạng khẩn cấp, dẫn đến việc kinh tế Nga sụp đổ hoàn toàn trong cảnh nợ nần và kiệt quệ.

Thể chế chính trị tập quyền cộng sản không thể đưa đất nước đi vào Kỷ nguyên mới

Nói đến đây, chúng ta cần khẳng định rằng chỉ có những người yêu nước và can đảm mới dám tiếp nhận một đất nước với một nền kinh tế đang trên đà sụp đổ. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể cứu vãn tình thế bằng một sự chuẩn bị, một nền tảng, và các cố gắng về thể chế đúng đắn – mà theo ngôn ngữ Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là một dự án chính trị. Người ta không thể cứu vãn bằng thói làm liều, bằng niềm tin cá nhân của những “nhà cải tổ” cuối thời kỳ cộng sản.

Nói đến đây, những người anh em làm trong lực lượng an ninh và tuyên giáo sẽ hiểu tại sao tôi nói rằng Ngôn ngữ và nền tảng để đất nước đi vào Kỷ nguyên mới không còn thuộc về Đảng Cộng sản. Ông Tô Lâm và Phạm Minh Chính cũng có rất nhiều chuyên gia, thậm chí có thể thuê cả các chuyên gia từ nước ngoài để thực hiện những chính sách đó. Các luật về bản quyền sáng tạo, cạnh tranh, start-ups, đầu tư FDI, chính sách phát triển R&D… vốn cần thiết cho quá trình chuyển hóa nền kinh tế, giờ đây cũng rất dễ tiếp cận (chứ không còn khó khăn như thời của Yeltsin và Gorbachev). Nhưng vấn đề nằm ở chỗ: liệu họ sẽ có một thể chế để thực hiện những chính sách đó một cách lương thiện, hay thể chế đó sẽ trở thành công cụ để tham nhũng và phục vụ các ý đồ chính trị của những phe phái, các lực lượng tài phiệt làm chính sách và định hướng bị biến tướng? Hoặc họ sẽ cố đấm ăn xôi bằng khẩu hiệu “cứ bàn làm, không bàn lùi”, để rồi phải đối mặt với một loạt những khó khăn và các cuộc khủng hoảng cấp tính, trực diện, chồng chéo, không thể bóc tách, để cuối cùng đất nước sẽ rơi vào sụp đổ và hỗn loạn?

3. Viễn cảnh hỗn loạn, mất kiểm soát đã bắt đầu

Cuộc cải tổ đã đưa bộ máy chính quyền và đất nước vào tình trạng lộn xộn và tê liệt. Như chúng ta đã thấy, bất chấp những lời nói đao to búa lớn về cải tổ bộ máy hành chính, cuộc cách mạng “đầu voi đuôi chuột” của ông Tô Lâm phần lớn sẽ đi đến thất bại. Cuộc cách mạng bộ máy nhà nước — bao gồm tinh giản biên chế (nhân sự và số đầu mối các bộ, ngành) và lược bỏ, sáp nhập đơn vị hành chính (gộp tỉnh và lược bỏ cấp huyện) — đã diễn ra theo cách chỉ khiến cho các bộ, ngành và chính quyền các cấp bị đảo lộn, rơi vào những xung đột lớn, và cuối cùng dẫn đến tình trạng tê liệt.

Thực ra, ông Tô Lâm không hoàn toàn vô lý khi đặt ra những cuộc cải tổ này. Vấn đề về bộ máy cồng kềnh đã được ông Trương Tấn Sang đề cập từ năm 2014, khi ông nói bộ máy chi ¾ ngân sách để trả lương, phần còn lại không đủ để trả nợ, thì lấy đâu ra các chi tiêu tối cần thiết khác. Họ đã có thể đưa ra một lộ trình có chuẩn bị cho những sự cắt giảm từ từ, có trật tự trong vòng 10 năm và hoàn tất vào năm nay. Nhưng họ đã chẳng làm gì (vì ông Trương Tấn Sang, và sau đó ông Nguyễn Phú Trọng, biết chế độ không làm được và không thể đánh liều), để rồi giờ đây “vừa chạy, vừa xếp hàng”. Thực ra ông Tô Lâm không hiểu biết chế độ hơn những người như Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng hay Nguyễn Phú Trọng. Họ có lẽ hiểu rõ chế độ không có khả năng cải tổ và không thể tự đánh liều bằng những chính sách “táo bạo”. Ông Tô Lâm, ngược lại, đã lên nắm quyền với một sự thiếu hiểu biết về bản chất chế độ. Ông nhìn thấy nhu cầu cần cải tổ rất cấp bách, nhưng để rồi đi đến một chính sách cải tổ, tinh giản bộ máy đầy tai hại mà ai cũng thấy rõ.

Tinh gọn bộ máy chính quyền.
Các cuộc cải tổ tinh gọn bộ máy phần lớn đang đưa đất nước vào cảnh hỗn loạn và tê liệt.

Chế độ mà ông Tô Lâm dẫn dắt đang đi vào vết xe đổ của Gorbachev hay Yeltsin: buộc phải cải tổ trong một tình trạng khẩn cấp về thời gian nhưng chẳng có một sự chuẩn bị gì. Họ đã “phát minh” ra một cuộc cải tổ tạm bợ (ở đây lẽ ra phải đi kèm với thực thi tản quyền và tổ chức các chính quyền vùng như Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đã trình bày). Để rồi đất nước bị đặt vào một tình trạng khẩn cấp hơn, với bộ máy tê liệt vì những sự xáo trộn trong từng ngành, từng cấp chính quyền, và những vấn đề mới đến chồng chéo khi một thiểu số nhỏ các vấn đề cũ cũng chưa giải quyết xong. Thực tế thì sự khẩn cấp của thời gian cũng có thể giải quyết được nếu có một tổ chức chính trị có nền tảng, có dự án chính trị đúng với một cố gắng thảo luận và những đồng thuận trong nhiều năm.

Tôi cũng đã khẳng định nhiều lần rằng, nếu đặt trong bối cảnh một nền kinh tế thu nhập cao, nơi dịch vụ chiếm đa số, với nền tảng là công nghệ và tri thức, thì sẽ không có chỗ cho những kẻ kỹ trị, hoặc cho một chế độ dân chủ nửa vời kiểu tổng thống chế, hay một thể chế nửa dân chủ, nửa tài phiệt mafia. Con đường vươn mình đó đòi hỏi một tập thể lãnh đạo thực sự khiêm tốn, bao dung, không coi bạo lực và độc đoán là phương pháp giải quyết vấn đề, và bắt buộc phải có một nền tảng tư tưởng cùng một dự án chính trị rõ ràng.

4. Nguy cơ tài phiệt thắng thế sau tất cả

Một hệ quả mà tôi đã trình bày ngay ở phần mở đầu và xuyên suốt bài viết là tình trạng bán tháo tài sản công của quốc gia như nhà máy, công ty dầu mỏ, khí đốt, v.v., với mức giá thấp hơn khuyến nghị của IMF, hoặc gần như chỉ mang tính tượng trưng, và được bán cho “người thân” hoặc “thân hữu” của các thành viên trong chế độ, bao gồm cả người thân của Yeltsin. Nhưng tại sao Yeltsin lại hành xử như vậy? Một phần vì ông ta là mẫu người thực tiễn và hám lợi. Nhưng cũng còn một lý do khác: đó là sự cô đơn, bởi những thất bại liên tiếp đã khiến ông buộc phải dựa dẫm vào các thế lực tài phiệt như một giải pháp để cứu vãn tình thế, cùng với tâm lý muốn tống khứ những gánh nặng càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, đó lại là tài sản quốc gia cần được giải tư một cách hợp lý để thu lại nguồn lực nhằm phục hưng đất nước, điều mà Dự án Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai cũng đã đề cập. Tất nhiên, cần nhấn mạnh rằng điều đó phải diễn ra một cách minh bạch và hợp lý. Nếu tư tưởng và thể chế là những nguồn lực vô hình, thì giải tư là một khoản thu hữu hình ngắn hạn nhằm giải tỏa những áp lực quá cấp thiết. Dù vậy, sự thiếu lương thiện và nền tảng yếu kém của Yeltsin đã biến nguồn tài sản nhà nước thành những mầm mống cho sự trỗi dậy của chủ nghĩa tài phiệt. Và như chúng ta đã biết, vào năm 2000 khi Putin lên cầm quyền, thì mọi thứ chấm dứt.

Putin và Yeltsin
Putin vào năm 2000: mốc thời gian đánh dấu chủ nghĩa tài phiệt thắng thế tại Nga.

Những người cộng sản cũng không nên nhìn thấy việc Yeltsin và Gorbachev được phép sống mà nghĩ rằng khi tài phiệt lên nắm quyền thì họ sẽ được yên ổn. Yeltsin và Gorbachev đều là những người (ít ra là so với đồng chí của mình) không có những thù oán cá nhân và nợ máu, và họ cũng có một uy tín để không bị những kẻ tài phiệt trả thù. Nhưng những nạn nhân dọn đường cho sự tài phiệt hóa Cộng hòa Liên Bang Nga có lẽ nhiều vô kể. Cứ nhìn vào lực lượng mafia mà các tài phiệt nắm giữ, bao gồm một số đặc vụ KGB giải ngũ, với những hình thức hạ độc, ám toán vô cùng tàn bạo; những nhà tù gulags vẫn được Putin duy trì, với tra tấn và lao động cưỡng bức. Tài phiệt hóa sẽ dẫn đến vô số nạn nhân bị loại bỏ để dọn đường. Nhưng quan trọng hơn cả là đất nước của chúng ta có thể sẽ sụp đổ, hoặc chỉ tồn tại với một chỗ đứng không đáng kể trên thế giới. Khi đất nước sụp đổ thì sự tồn tại của chúng ta cũng trở nên nhỏ bé và vô nghĩa như thân phận con sâu con kiến — vậy còn điều gì đáng để chúng ta tỏ ra thủ cựu với nhau ở thời điểm này?

Tất nhiên, tôi khẳng định rằng anh em Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên sẽ tin tưởng vào thiện chí của mọi thành phần trong đất nước. Nhưng chúng tôi cũng phải cảnh giác một số hành động nguy hại cho đất nước, một trong số đó là sự lớn mạnh không thể chối cãi của thế lực tài phiệt.

Chúng ta có thể thấy những hoạt động kinh doanh ngoài bất động sản của VinGroup đều gặp thua lỗ, nhưng chế độ đều trao cho VinGroup những dự án bất động sản để cứu nguy cho tình hình của tập đoàn này.

Một tập đoàn khác cũng thầm lặng là Sun Group. Chúng ta phải phẫn nộ khi họ đã phá nát Tam Đảo (dù không chỉ có mình họ), Bà Nà, hay gần đây là dự án nhà hát ở khu Đầm Trị (sử dụng chính ngân sách nhà nước), và ở Cát Bà, để làm các dự án bất động sản kiếm lời (như trang Save Tam Đảo thường xuyên cảnh báo).

FB Save Tam Đảo.

VinGroup, Sun Group, hay rất nhiều các tập đoàn tài phiệt khác chẳng gặp một vấn đề gì khi tàn phá nốt hệ sinh thái còn lại ít ỏi của đất nước, xây nhà lấn biển trước tình trạng nước biển dâng, phá vỡ mọi quy hoạch và quy chuẩn bảo vệ môi trường. Họ đã hành xử một cách tự do và trục lợi trên sự tàn phá với đất nước.

FB Save Tam Đảo.

Gần đây, gói nợ do Vạn Thịnh Phát của bà Trương Thị Mỹ Lan cần một khoản cứu trợ trị giá 5% GDP cũng được tái cơ cấu cho Sun Group để làm dự án và trả trong nhiều năm. Điều này ẩn chứa đầy rủi ro về việc chiếm dụng tiền tài đất nước và một tình trạng khủng hoảng sẽ khiến ông Tô Lâm và chế độ cộng sản có xu hướng bị lệ thuộc vào ý chí của những phe cánh độc tài, xem họ như những cứu cánh thay vì mối nguy.

Đỉnh điểm của sự phẫn nộ là thực trạng đất nước đang kiệt quệ, nhưng giá bất động sản vẫn bị đẩy lên cao. Giới tài phiệt bất động sản cũng không quên lợi dụng cuộc cải tổ đơn vị hành chính của ông Tô Lâm để tiếp tục thổi giá đất, khi những vùng nông thôn, ven đô, tỉnh lẻ được sáp nhập vào các thành phố lớn. Dù chúng ta đều biết rằng vấn đề nhà ở là một trọng tâm để giấc mơ Việt Nam được người Việt đón nhận — người Việt cần một mức giá nhà ở vừa túi tiền để “an cư lạc nghiệp” và đóng góp vào giấc mơ Việt Nam. Vậy ông Tô Lâm hay ông Phạm Minh Chính có nhìn thấy những hành động bơm thổi giá như một nguy cơ lớn đối với đất nước hay không?

Và những tháng ngày sau này, khi tình thế đã mất hoàn toàn kiểm soát, những người lãnh đạo chế độ không còn khả năng đảm bảo những an ninh cơ bản vì tất cả đã rã rượi thì đất nước sẽ đi về đâu? Những lực lượng tài phiệt sẽ thấy rằng mục đích chiếm đoạt tài sản ban đầu của mình chưa đủ và họ có thể thực hiện một cuộc thay đổi chính trị, như đi về chế độ độc tài cá nhân thông qua con đường tổng thống chế, hoặc tìm cách đưa đất nước đi vào một thể chế nửa dân chủ, nửa độc tài khác. Đó là một nguy cơ có thực và một xu hướng sẽ xảy ra khi họ triệt tiêu và bách hại những người đang vun đắp và chuẩn bị cho dự án Dân Chủ Đa Nguyên. Nói đến đây phải chẳng ông Tô Lâm và đảng cộng sản đang nhầm lẫn: thay vì xem Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên như lối thoát lại xem là mối nguy, và xem mối nguy tài phiệt là một cứu cánh (theo ngôn ngữ ông Nguyễn Gia Kiểng)?

Những gì ông Tô Lâm và lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam có thể làm lúc này là hãy chấm dứt mọi sự đàn áp với Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên và những người đấu tranh cho đất nước Việt Nam. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên không bao giờ lợi dụng một tình trạng khẩn cấp quốc gia để “chống phá”, “âm mưu lật đổ”. Ngược lại, những tập đoàn tài phiệt, những công ty sân sau của họ, đang lợi dụng tình thế để chiếm lợi và cướp đoạt đất nước một cách công khai nhất. Dù chế độ có thể xử phạt rất nặng những người như Trịnh Văn Quyết hay Trương Thị Mỹ Lan, thì họ cũng chỉ là đại diện cho lực lượng thất thế đã từng lợi dụng cơ chế tham nhũng và khe hở của pháp luật mà thôi. Sự trừng phạt dù có phần nặng nề và nghiệt ngã cũng không ngăn cản được tình trạng lũng đoạn đang gia tốc của giới tài phiệt.

Chế độ buộc phải hướng đến một tiến trình chuyển tiếp dân chủ một cách lương thiện và đòi hỏi sự giải thể của chế độ để trở thành một tác nhân của một chế độ dân chủ đa nguyên, với tinh thần hòa giải dân tộc và sự lương thiện để hành động đúng, không tạo thêm nạn nhân mới trên đất nước này, thay vì trở thành nạn nhân của một cuộc dọn đường cho chế độ tài phiệt khi tình hình đã vượt ngoài tầm kiểm soát. Họ cũng buộc phải khiêm tốn và làm những điều đúng để bàn giao lại một đất nước ổn định nhất, trật tự nhất về mặt kinh tế và xã hội, để rồi người dân vẫn sẽ nhìn ông Tô Lâm, ông Phạm Minh Chính, hay những người lãnh đạo chính quyền như những người cải tổ, những người đã lựa chọn đúng và là tác nhân của lịch sử.

Mặt khác, những người tài phiệt cũng cần khiêm tốn và nhìn thấy cái sai và những tai hại họ có thể gây ra cho đất nước vì lòng tham. Những người doanh nhân đã làm ăn bất chính cần phải lưu ý rằng, khi Putin lên cầm quyền thì những nhà tài phiệt, vốn từng được Yeltsin dung dưỡng trong giai đoạn cuối của Liên Xô, đã bị triệt hạ một cách thô bạo để thay thế bằng những người thuộc phe Putin. Putin cũng sẽ tiếp tục thanh trừng những cá nhân tài phiệt nếu có sự chống đối nhỏ nhất. Tài phiệt hóa đất nước thì chẳng có gì vinh quang và cũng chẳng lấy một đảm bảo nào. Putin có thể kiểm soát tình hình một thời gian nhờ sự gia tăng trở lại của giá dầu và khí tự nhiên. Nhưng Việt Nam không kiểm soát tình hình bằng một ý chí và vật chất nào ngoài việc buộc phải mở ra nguồn lực và tình cảm về con người Việt Nam với một tinh thần vô cùng bao dung và lập trường hòa giải; và thực sự cởi mở, có thiện chí để hội nhập với thế giới, cùng những chính sách, định hướng đúng đắn, được thực hiện nghiêm túc. Lực lượng tài phiệt Việt Nam, dù họ thành công trong việc tài phiệt hóa hay đưa chế độ về Cộng hòa tổng thống, sẽ không có được may mắn như Putin nhờ nguồn dầu mỏ và khí đốt, họ sẽ chẳng có gì ngoài sự hỗn loạn và tàn bạo nếu đó không phải là con đường dân chủ đa nguyên.

Mặt khác, một chế độ dân chủ đa nguyên vẫn cho phép mọi hoạt động kinh doanh có trách nhiệm cùng những xu hướng cạnh tranh và hợp tác có lợi. Một chế độ dân chủ đa nguyên sẽ khuyến khích các hoạt động kinh doanh nếu đó là những hoạt động lương thiện, chấp nhận quy luật thị trường, hợp pháp và tôn trọng tinh thần pháp trị. Họ và thế hệ con cháu vẫn còn đó một chỗ đứng, một con đường để trở thành một tầng lớp doanh nhân đúng nghĩa, lương thiện, có kiến thức và bản lãnh như Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đã trình bày với một thái độ ăn năn và sự thành tâm. Chỉ cần ngày hôm nay họ lựa chọn khiêm tốn và không tiếp tay cho xu hướng tài phiệt hóa đất nước Việt Nam.

Chu Tuấn Anh

(16/04/2025)

About the author