II. Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1954-1975)
A. Hai nước cộng sản anh em
Sau ngày 20/7/1954, quan hệ giữa hai chính quyền cộng sản Việt Nam và Trung Quốc trở nên thắm thiết. Nhiều danh từ hoa mỹ được đưa ra để ca tụng “quan hệ xã hội chủ nghĩa anh em” , “sông liền sông núi liền núi”, “môi hở răng lạnh” v.v… (xem Phụ lục 3).
Hồng quân Trung Quốc, sau 1950, đã đưa người và vũ khí giúp phong trào Việt Minh tại chiến khu Việt Bắc, giúp đánh thắng trận Điện Biên Phủ. Tư tưởng cách mạng của Mao Trạch Đông được Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt chước áp dụng một cách triệt để như “lấy nông thôn bao vây thành thị”,” đấu tố”, “cải cách ruộng đất”, “xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”, “dân công tập thể” v.v…
Về quân sự, Trung Quốc viện trợ 85% vũ khí, đạn dược, phi đạn, đại pháo, chiến đấu cơ, chiến xa, quân xa, quân trang và các phương tiện chiến tranh khác (trừ hỏa tiễn phòng không Sam và máy truyền tin cao cấp) cho Hà Nội để bảo vệ miền Bắc và thực hiện tham vọng giải phóng miền Nam. Cố vấn quân sự Trung Quốc có mặt tại các trung tâm huấn luyện đặc công và địch vận. Nhiều kháng chiến quân gốc Hoa ra Bắc tập kết sau năm 1954, được tái phối trí công tác vào Nam hoạt động Hoa vận trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.
Chế độ cộng sản miền Bắc dành ưu đãi cho Trung Quốc trong một số lãnh vực. Thương mại được miễn tô tại các hải cảng khi chuyển hàng hóa sang Việt Nam (có một thời tại miền Bắc hàng hóa của Trung Quốc là hàng ngoại được ưa chuộng nhất của dân chúng miền Bắc như xe đạp, vải, thức ăn khô, dép râu, bút máy, bình thủy, thuốc lá…). Văn hóa phẩm được du nhập vào Việt Nam không hạn chế, nhiều bài hát được dịch và phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Âm điệu và âm nhạc miền Bắc trong thời kỳ này chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc vì có tính cộng đồng, dễ áp dụng trong đám đông và hun đúc tinh thần cách mạng, gương hy sinh trong các cuộc tập kích quân sự. Nhiều đoàn văn công, văn nghệ được cử sang Trung Quốc tu nghiệp và được trang điểm giống văn công Trung Quốc.
Nhưng sự e dè đối với Trung Quốc vẫn có. Về địa lý Trung Quốc ở quá gần, lực lượng quân sự quá mạnh nên không thể để một sơ suất nào khiến Bắc Kinh có thể vin cớ bảo vệ hay giúp đỡ mà can thiệp vào nội tình chế độ cộng sản miền Bắc Việt Nam. Chính quyền Hà Nội thời đó rất khôn ngoan trong việc bang giao hay nhận viện trợ, thêm vào đó Trung Quốc cũng không muốn dính líu quân sự trực tiếp với Việt Nam vì e ngại một cuộc chiến tranh Triều Tiên khác (năm 1953, Hồng quân Trung Quốc bị quân đội Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là Hoa Kỳ đánh bại phải lùi về Bắc Triều Tiên), do đó không có hồng quân Trung Quốc chiến đấu bên cạnh bộ đội Việt Nam. Trong những năm tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam, Hà Nội đã nhận viện trợ của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhưng không để Trung Quốc chi phối những quyết định có tính chiến lược và quân sự. Chỉ trừ trường hợp năm 1956, thủ tướng Phạm Văn Đồng không có ý kiến về nội dung bài diễn văn của Chu Ân Lai khi ông này xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa tại Biển Đông (thực sự trong giai đoạn này Hà Nội không quan tâm đến chủ quyền trên biển và hải đảo).
Tình báo quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam trong những năm chiến tranh (1960-1975) tuy có trưng bày nhiều bằng cớ (các cuộc điện đàm, tài liệu, xác chết, tù binh) nói rằng hồng quân Trung Quốc giả dạng bộ đội miền Bắc có mặt trên khắp các chiến trường miền Nam nhưng không có gì xác quyết. Thật ra Trung Quốc có đưa người sang giúp Việt Nam nhưng họ chỉ xây dựng các phương tiện giao thông tại các tỉnh phía Bắc, mục đích là để chuyển vận vũ khí và tiếp liệu cho Hà Nội thực hiện cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam. Ngoài ra Trung Quốc có đưa cố vấn quân sự sang hướng dẫn cách sử dụng các vũ khí phòng không và huấn luyện đặc công. Bắc Triều Tiên cũng có đưa sang miền Bắc nhân viên phi hành và phi công chiến đấu phòng vệ vùng trời và một số chí nguyện quân vào Nam để đánh với quân Nam Hàn (ủng hộ miền Nam) tại các tỉnh Quảng Nam và Bình Định. Vì có vóc dáng và âm ngữ giống nhau, người ta thường lầm tưởng những chí nguyện quân Bắc Hàn là hồng quân Trung Quốc.
B. Một vài biện pháp nới lỏng
Tuy nhiên Đảng Cộng Sản Việt Nam (Đảng Lao Động thời đó) cũng đã kết nạp rất nhiều đảng viên gốc Hoa để giúp chế độ trong một số các khâu quản lý hành chánh và xí nghiệp tại Hải Phòng, Móng Cái và Quảng Ninh. Một số tư thương được phép buôn bán nhỏ và mở một vài cửa hàng ăn uống nhỏ tại các thành phố lớn. Thời kỳ này công nhân gốc Hoa gần như nắm hết các khâu kỹ thuật trong các nhà máy chế biến hay khai thác mỏ quặng tại miền Bắc. Trung Quốc cũng giúp chế độ cộng sản miền Bắc xây dựng nhiều công trình qui mô lớn như xây dựng lại tuyến đường sắt Hữu Nghị (biên giới Hoa – Việt), cầu đường, đê điều, các nhà máy chế biến phân bón, đúc cán sắt, khai thác quặng mỏ, v.v…
Nhưng cộng đồng người Hoa không có điều kiện phát triển mạnh. Chính quyền cộng sản đã quốc hữu hóa toàn bộ các cơ sở kinh doanh của tư nhân Việt, Hoa và Pháp để lại. Thành phần thương nhân tại các thành phố lớn, sau 1954, đã tìm cách chạy vào Nam hoặc sang các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á. Thương nghiệp tư doanh bị loại trừ khỏi hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Người Hoa, có truyền thống buôn bán, mất địa bàn hoạt động đã trở thành công nhân nhà máy, công nhân nông trường (xem Phụ lục 3).
Chỉ một thiểu số tiểu thương còn sót lại sống bằng các nghề bốc thuốc, chạp phô hay buôn chui bán lậu giữa họ với nhau, nhưng dần dần bị yếu đi và biến mất. Một số ít người Hẹ, Quảng Đông và Hải Nàm làm nghề nông dọc các bờ biển Vịnh Bắc Phần và Hải Phòng, nhưng đất đai sau đó bị đưa vào hợp tác hóa, họ trở thành công nhân nông trường như bao người khác. Một số ngư dân gốc Hải Nàm và Quảng Đông làm nghề chài lưới trong Vịnh Bắc Phần, nhưng thuyền bè sau đó cũng bị đưa vào hợp tác hóa, họ trở thành công nhân đánh cá. Người gốc Hải Nàm chuyên sống bằng nghề tay chân và làm công nhân (phu mỏ và bốc vác), chịu sự quản lý chặt chẽ của guồng máy đảng. Hoạt động của đám cướp biển tại Móng Cái bị dẹp tan trong thời gian miền Bắc tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam.
Tại Hà Nội, sinh hoạt chính của người Hoa tập trung quanh phố Hàng Buồm, Hàng Đào và có một tờ báo riêng mang tên Tân Việt Hoa viết bằng tiếng phổ thông (quan thoại). Cộng đồng người Hoa tại Hà Nội-Hải Phòng đa số là Hoa kiều trực thuộc Tổng Hội Hoa Liên tại phố Văn Thánh và được cấp hộ chiếu Trung Quốc. Hội này liên hệ chặt chẽ với tòa đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội. Người Hoa tại Hải Phòng tập trung quanh phố Phan Bội Châu, khu bến cảng. Những công dân gốc Hoa về mặt dân sự không trực thuộc Trung Quốc, nhưng lệ thuộc rất nhiều về tình cảm, mỗi khi Trung Quốc kêu gọi sự ủng hộ có liên quan đến truyền thống hay quyền lợi của người Hoa, họ sẵn sàng nghe theo (xem Phụ lục 3 và 5).
Vì không muốn làm phật lòng Trung Quốc, chính quyền cộng sản miền Bắc duy trì một sự quản lý lỏng lẻo cộng đồng người Hoa. Mỗi khu vực dân cư gốc Hoa đều có một người Hoa địa phương quản trị, người này là gạch nối giữa cộng đồng với chính quyền. Nông dân gốc Hoa tại miền Bắc đều có quốc tịch Việt Nam nhưng trong thực tế họ lệ thuộc tình cảm vào chính quyền Trung Quốc hơn là với Việt Nam mặc dầu đang sinh sống trên mảnh đất này.
Do hưởng qui chế quản lý lỏng lẻo đó, trong thời gian có chiến tranh với miền Nam, cộng đồng người Hoa được hưởng nhiều qui chế biệt đãi như miễn thi hành nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, với sự chấp thuận của Trung Quốc, người Hoa miền Bắc phải thi hành một số chính sách phi chiến tranh khác một cách triệt để như thi đua sản xuất, đóng góp tài vật cho bộ đội vào Nam, gia tăng thời gian lao động trong các nhà máy và nông trường v.v… Không có người gốc Hoa nào giữ những chức vụ cao cấp trong đảng, quân đội và chính quyền cộng sản Việt Nam.
Khi lệnh tổng động viên được ban hành, trong những năm 1960-1970, người gốc Hoa mà tổ tiên nhiều đời đã đến lập nghiệp tại Việt Nam (không còn nhiều liên hệ tình cảm với chính quyền Trung Quốc) thuộc những diện được kết nạp sau cùng (cùng diện với người công giáo, ngụy quân, ngụy quyền cũ có liên quan đến chế độ thực dân, gia đình tư sản). Rất nhiều người gốc Hoa đã hy sinh trong công cuộc phòng vệ miền Bắc chống sự nem bom của máy bay Mỹ. Và cũng đã có rất nhiều bộ đội gốc Hoa đã bỏ mình trên chiến trường miền Nam và những người này đã chiến đấu cho chế độ cộng sản miền Bắc chứ không cho chế độ cộng sản Trung Quốc.
Cộng đồng người Hoa vùng biên giới phía bắc (Cao Bắc Lạng) và các sắc tộc thiểu số có nhiều liên hệ mật thiết với Trung Quốc hơn là với các Hoa kiều sống tại đồng bằng hay vùng Đông Nam Á khác.
Lo sợ Việt Nam có thể trở thành một thế lực quân sự, từ năm 1967, Trung Quốc tìm cách hạn chế bớt tiềm lực quân sự và ảnh hưởng của miền Bắc Việt Nam. Trung Quốc đã biểu hiện nhiều ý đồ không tốt như tuyên truyền với những người gốc Hoa là họ có những quan hệ huyết thống, phong tục tập quán và ngôn ngữ từ xưa với Trung Quốc, nghĩa là vẫn được nhìn nhận là người Trung Quốc, để làm áp lực.
Trong chính quyền, Trung Quốc cũng đã đào tạo được nhiều chuyên viên, cán bộ Việt Nam thân Trung Quốc. Có nhiều trường hợp tranh chấp ảnh hưởng đã xảy ra giữa phe thân Trung Quốc và phe thân Liên Xô sau cái chết của Hồ Chí Minh.
Phản ứng chống ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa thể hiện mạnh nhất qua bài vở học tập, nhất là về lịch sử khi đề cao những chiến công của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, đặc biệt là của Quang Trung Nguyễn Huệ. Trong một số tài liệu tuyên truyền và tên công sở, chế độ cộng sản miền Bắc nhất định không dùng chữ Hán. Tuy nhiên cũng có nhiều tên đặt nửa Hán nửa Việt làm người đọc phải ngớ ngẩn như Cục Đường Biển, Phân Cục Đường Sắt, Nhà Đẻ, v.v… Đây cũng là một hành vi biểu lộ thái độ thù nghịch, tránh dùng lại những danh từ và tên gọi mà chế độ miền Nam đã sử dụng (máy bay lên thẳng, lính thủy đánh bộ thay vì trực thăng, thủy quân lục chiến…). Khi chiếm được miền Nam, nhiều gia đình gốc Hoa miền Bắc xin di cư vào Nam lập nghiệp nhưng không được cấp giấy phép.
Mức sống của người Hoa tương đương với mức trung bình của nhân dân miền Bắc, nghĩa là bình đẳng theo chế độ khẩu phần. Nhưng về tinh thần, họ sống thoải mái hơn vì không phải ưu tư nhiều với cuộc chiến và sau lưng có Trung Quốc đỡ đầu. Người Hoa miền Bắc vẫn duy trì lối sống cách biệt với người Việt, họ nói tiếng và duy trì những phong tục Trung Hoa. Thanh niên Hoa thường lập gia đình giữa họ với nhau, rất ít trường hợp lập gia đình với người Việt.
Năm 1975, người gốc Hoa tại miền Bắc có khoảng 300.000 người, đa số nói tiếng Quảng Đông, Hải Nàm và Hẹ. Nhiều gia đình gốc Hoa sống tại Hà Nội, Hải Phòng và vùng ven duyên đã đi chui vào Nam lập nghiệp, họ tìm thân nhân trong vùng Sài Gòn – Chợ Lớn để được tạm trú và sau đó tìm cách lo lót giấy tờ để được thường trú.