Đại lễ cuồn cuộn cờ tiếp nối cờ, như thác, như lũ và đất nước lại bừng lên, phấp phới, như một… “cường quốc cờ”.

Thêm “cờ”, đất nước còn bừng ra như một “cường quốc đủ thứ” với hàng loạt danh vị khác nhau, “nghị quyết”, “hoa hậu”, “thơ” rồi “hội nghị thành công tốt đẹp”, “tiến sĩ”, “cao cấp lý luận chính trị” v.v. Hay thì cũng thực là hay nhưng, thực chất, lại là kiểu “cường quốc” chẳng giống ai, chẳng ai mong muốn và, do đó, chẳng hề cho công dân mình cơ hội ưỡn ngực, ngửng đầu.
Nếu danh vị nào cũng có tuồng tích riêng của nó thì cái sự “chẳng giống ai” lại là một mẫu số chung ở ý nghĩa châm biếm, mỉa mai, như “cường quốc nghị quyết” chẳng hạn. Nếu sự tích là câu chuyện tiếu lâm thế sự vào thời ông Lê Duẩn thì dư vị để lại cả một nỗi niềm chung, hầu như cho toàn xã hội, Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào. Có tích mới dịch ra tuồng và tuồng tích ở đây được khai mở theo một đại hội – than ôi, lại… đại hội – của Comecon, khối kinh tế xã hội chủ nghĩa. Comecon bàn cách đột phá kinh tế, qua mặt khối tư bản và kết luận rằng cần phải chuyên môn hóa tối đa để, một khi từng thành viên khai thác đến mức tối ưu sở trường của mình, toàn khối sẽ vươn lên.. “vượt mức kế hoạch”. Nhưng nếu nước nào cũng có ưu thế riêng của mình, Nga có kỹ nghệ nặng và dầu lửa, Ukraine có lúa mì, Mông Cổ có thịt và sữa, Cuba có đường và cigar v.v., thì Việt Nam có gì? Là một nước nông nghiệp, với cả một đồng bằng phì nhiêu ở Nam bộ mà chỉ việc trồng lúa thôi cũng không xong, cũng để cho dân đói, mà là đói quay đói quắt, còn có thể nói đến “thế mạnh” nào khác? Cả khối bàn cãi những mấy ngày trời tưởng là bế tắc, hết nhăn trán nhíu mày thì lắc đầu bất lực nhưng, cuối cùng, cũng lóe lên chút ánh sáng cuối hầm. Đó là khi một đại biểu nhận xét rằng không nơi đâu “giàu nghị quyết” như Việt Nam và nếu đây là ưu thế, là sở trường, tại sao Comecon không giao hẳn cho thành viên này đảm nhiệm công tác… sản xuất nghị quyết?
Cái cay đắng của danh vị “cường quốc” này là ở đó, là những “nghị quyết” ê hề nhưng chẳng thể nào nhét vào bao tử thay cơm, càng không thể xuất khẩu kiếm ngoại tệ hay đổi chác máy móc, thuốc men. Và nếu thời ấy, thời “bao cấp”, là thời của “ba dòng thác cách mạng” trong cách diễn giải nghị sự chính trị quốc tế thì, trên khía cạnh nghị sự quốc gia, đó là cả một “dòng thác nghị quyết” mà, đến tận hôm nay, vẫn ồ ạt tuôn trào. Cứ như vậy, theo từng dòng thác song song – “hoa hậu”, “hội nghị thành công tốt đẹp” hay “tiến sĩ” v.v. – những danh vị cường quốc hữu danh vô thực lại thi nhau hình thành trong khi đất nước thì vẫn lẹt đẹt tụt hậu với những sự thể mỉa mai, cười ra nước mắt.
Như cái cười trước bộ máy công quyền mà, nhìn theo bằng cấp, có học thức cao nhất hành tinh này, cao hơn bất cứ cường quốc nào, kể cả khối Thất Cường (G7). Đã hơn với tỷ lệ quan chức có bằng cấp cao nhất, “cường quốc tiến sĩ” của chúng ta ngạo nghễ với loại văn bằng mà, có lẽ, không nơi nào có, như một “cường quốc cao cấp lý luận chính trị”.
Nhưng có say sưa với đỉnh cao hay sự độc đáo ấy đến đâu thì cũng đến lúc phải xìu xuống bởi cái sự thể “chẳng giống ai”, như tổ tiên từng chế nhạo:
Anh hùng là anh hùng rơm
Cho một bó đuốc, hết cơn anh hùng
Nếu chúng ta, trước những anh hùng rơm vênh váo khi lâm cảnh phải.. đuốc, có thể bật cười sảng khoái thì, trước những chức quyền đầy bằng cấp lúc thò đuôi chuột về học thức, lại khó mà có một cái cười trọn vẹn bởi, thấp thoáng sau đó, lại là vận mệnh chung của đất nước, là số phận của từng con người trong sự định đoạt của chính hạng người đó. Chúng ta cười như khóc với một Thứ trưởng Ngoại giao, thạc sĩ ngoại giao kiêm cao cấp lý luận chính trị, nhưng ngây ngô đến mức không hiểu thế nào… hối lộ. Chúng ta cười như đau trước một ông phó tỉnh, tiến sĩ luật kiêm “cao cấp lý luận chính trị”, mà khờ khạo đến độ tin rằng, nếu, tiền đút lót mà không rút từ ngân sách, thì không phải là hối lộ. [1]
Và bây giờ là dòng thác cờ của đại lễ mà, xét ra, cũng chẳng mới mẻ gì. Đó là một lịch sử lâu dài, như lễ mừng chiến thắng với cảnh duyệt binh ở Hà Nội, sau Hiệp định Paris vào đầu năm 1973, theo ghi chép của nhà phê bình Vương Trí Nhàn:
“Tiếp tục ra các khu xa trung tâm. An Dương, màu đỏ lá cờ nổi lên trên màu đỏ của gạch ngói bị vỡ. Và bây giờ tôi mới hiểu ý nghĩa của màu đỏ mà chúng ta thường thấy. Em trai tôi kể: Qua Yên Viên, không còn nhận ra gì cả, chỉ thấy cờ đỏ. Cờ đỏ ở trên cây. Cờ đỏ ở một ít nhà còn sót lại. [2]
“Không còn nhận ra gì cả, chỉ thấy cờ đỏ”, cái thời tem phiếu thiếu thốn, phải vá chằng vá đụp mà đã ra dáng… cường quốc cờ rồi thì nói gì là hôm nay? Vậy nhưng, nếu sống lại, chứng kiến cái cảnh “cường quốc cờ” trong khi giang sơn teo tóp, quá khiêm cung so với thời của mình, những thế hệ trước như Minh Mạng sẽ nghĩ như thế nào?
Vị vua được xem là “minh mẫn, hiếu học lại hay làm, phàm có việc gì cũng xem xét đến, và phải có châu phê rồi mới được thi hành”, khi tìm hiểu binh chế Tây phương để cải tổ quân đội, đã nhận ra sự bất cập của tình trạng “nhiều cờ”: [3]
“Binh chế của triều đại ta, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người; mỗi đội có 20 khẩu súng dài, 20 khẩu súng điểu sang và 4 cán cờ. Thế là một vệ 500 người, mà có đến 40 người cầm cờ. Xem binh chế của Tây dương, 2000 người chỉ có 2 lá cờ; binh chế nhà Thanh, cũng 1 vệ chỉ có 4 lá cờ, chứ chưa có nước nào nhiều cờ đến như thế! Súng để bắn, giáo để đâm, đều cần thiết trong việc dụng binh, còn cờ chỉ để chỉ huy lúc lui, lúc tiến, nhiều có ích gì! Bộ binh ngươi nên ghi nhớ: mỗi đội chỉ cấp cho 2 cờ thôi, còn thì đều cấp cho khí giới mới được. [4]
Minh Mạng đã mở rộng lãnh thổ đến mức cao nhất trong lịch sử nước nhà, thu tóm cả Ai Lao và Chân Lạp và, vấn đề ở đây, không phải là đề cao tinh thần bành trướng hay thực dân mà để nhấn mạnh rằng, đất nước có mạnh, có vươn tới địa vị “cường quốc” của khu vực, thì mới có thể thực hiện được những điều như thế. Mà qua một việc làm như thế, phải chăng, Minh Mạng còn chứng tỏ được mối tương quan nghịch chiều giữa sức mạnh đất nước và cờ? Càng ít khoe cờ, càng ít màu mè lòe loẹt với cờ, đất nước sẽ càng mạnh hơn? Và, suy rộng ra thì, càng là cường quốc, càng cần phải tiết chế việc phung phí tài nguyên cho những màn phô trương chỉ để sướng mắt, chỉ trong mấy tiếng đồng hồ?
Trong cái nhìn này thì, cơ hồ, không ít bậc lãnh đạo quốc gia của chúng ta lại là những kẻ không chịu đọc, đừng nói là chịu học. Dân của một nước thì phải học lịch sử nước nhà, tất nhiên, nhưng bậc lãnh đạo quốc gia thì càng phải nghiền ngẫm cho kỹ những bài học về sự suy vong, đặc biệt là cái thời sắp sửa mất nước. Vì không học mà chẳng đọc nên, khi còn là Chủ tịch nước, vào bốn năm trước, ông Nguyễn Xuân Phúc mới làm phiền ngư dân khi trao tặng một loạt năm ngàn lá cờ? [5]
Đây không phải là chuyện bốc đồng, là cơn hứng bất tử của nhà lãnh đạo chưa bao giờ thể hiện phẩm cách “việc gì cũng xem xét đến”. Ông ta có tặng thì, chẳng qua, là để hưởng ứng “Phong trào ‘Một triệu lá cờ Tổ quốc cùng ngư dân bám biển’” mà báo Người Lao Động đề xướng từ năm 2019. Và như thế thì tờ báo này, toàn ban, từ trên xuống dưới, cũng không học và chẳng đọc, càng không thể hiện phẩm cách “việc gì cũng xem xét đến”, ngay với những ngư dân mà họ cố bày tỏ sự quan tâm.
Những ngư dân có ra khơi thì, trước hết, là để mưu sinh và, qua đó góp phần khẳng định chủ quyền của đất nước trên những vùng biển bị tranh chấp. Và khi làm như vậy thì họ phải chường mặt ra trước bao nhiêu là mối nguy và đe dọa, từ những tàu hải cảnh Trung Quốc hung dữ, từ những ngư dân kiêm cướp biển Trung Quốc, cũng không kém phần hung dữ. Như thế, điều mà những ngư dân ấy thực sự cần là một sự bảo đảm về an ninh qua sự hiện diện của hải quân hay biên phòng, qua sự sự trang bị vũ khí để gia tăng sự tự tin và, trong trường hợp cần thiết, có thể răn đe hay tự vệ. Và, trước những may rủi rình rập, họ còn cần bao nhiêu sự giúp đỡ thiết thực khác về vật chất, từ sự tài trợ về nhiên liệu hay thiết bị, sự ưu đãi tín dụng hay thuế khóa, rồi những khoản bảo hiểm phòng khi bị nạn cho họ, cho cả vợ con v.v. Tuy nhiên họ hầu như chẳng thấy gì cả ngoài… cờ. Không hẳn là 100% nhưng, những quà tặng này, cũng từa tựa như thứ bùa chú mà những pháp sư Nghĩa Hòa Đoàn màu mè ban cho những võ sĩ của mình trước giờ xung trận, với ảo tưởng rằng sẽ giúp họ vô sự trước súng đạn. Nghĩa Hòa Đoàn ra đời ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ 20 và nếu những võ sĩ của nó tỉnh cơn mê ngay từ những phát súng đầu tiên với cái giá bằng máu thì, bây giờ, giữa thập niên 20 của thế kỷ 21, trên đất nước chúng ta, vẫn có chuyện màu mè tương tự, với cờ.
Mà sự màu mè này, như đã thấy, cũng chẳng hay ho gì trong mối tương quan nghịch chiều như vua Minh Mạng đã bộc lộ. Xa hơn, chỉ ôn lại những bài học lịch sử căn bản nhất, cũng thấy được rằng sức mạnh hay năng lực sinh tồn của một quốc gia hay một thể chế không hẳn nằm ở mấy màn phô trương nhất thời, qua những “đại lễ” nhất thời, với độ thẳng tắp hay rập ràng của những đội duyệt binh, với độ phấp phới của những hàng cờ. Có quân đội nào duyệt binh oai vệ và đẹp đẽ như Đức Quốc Xã nhưng kết cuộc của nó thì ai cũng biết rồi. Mà nếu đó là chuyện xưa thì, thời này, nếu không kể những năm sa lầy vì cuộc chiến Ukraine, có năm nào mà quân Nga không rầm rộ duyệt binh, cực kỳ hùng dũng, cực kỳ hoành tráng? [6] Nhưng càng rập ràng đẹp mắt trên Hồng trường bao nhiêu thì, trên trận địa Ukraine, nó càng ì ạch, rời rạc và, thậm chí, càng hỗn loạn bấy nhiêu. Càng oai phong trong trình diễn thì, trong tác chiến và sinh hoạt tại thực địa chiến trường, càng xấu xí, nhếch nhác và bẩn thỉu. Bẩn và nhếch nhác đến độ, khi rút quân hay khi tháo chạy, quân Nga luôn luôn khiến đối thủ tởm lợm đến phát ói với những bãi phân bắc nồng nặc mùi quanh nơi đồn trú. [7]
Cũng giống như một đội quân, năng lực sinh tồn của một quốc gia biểu lộ ở những khía cạnh nhỏ nhặt và tự nhiên nhất chứ không hẳn là những màn trình diễn đã đầu tư bao nhiên công sức, tài nguyên. Là cách họ cách ứng xử với vật thải của mình, với môi trường mình đang sống, với mối giao tế cộng đồng xã hội mà mình là một thành viên. Và trên khía cạnh này thì, cứ mỗi lần “đại lễ”, là mỗi lần mà bất cứ người Việt tử tế nào cũng phải đau đớn với câu hỏi là, từ bao giờ, người Việt lại tệ hại đến thế? [8]
Có tệ hại đến như vậy thì mới có cái điệp khúc cờ phấp phới trên đầu mà rác thì lổn nhổn dưới chân theo từng đại lễ và, đây đó, luôn luôn, là những luống hoa công cộng tả tơi như một cuộc bể dâu. Rồi, cũng luôn luôn, là nạn chen lấn, xí chỗ, những hành vi thô bạo, vô văn hóa mà, theo một nhân chứng, là “sẵn sàng đánh nhau để được xem duyệt binh”. [9] Nếu nhìn lên, chúng ta có thể tự trào về một “cường quốc cờ” thì, khi nhìn xuống chúng ta có thể nào đau đớn tự phán về một “cường quốc rác”, “cường quốc chen lấn” hay, khái quát hơn, là một “cường quốc vô văn hóa”?
Đó, tất nhiên, là những danh vị bất bình thường nhưng cần nhớ rằng những gì mà rất đông người Việt chúng ta cho là “bình thường”, như xả rác hay xô xát để giành chỗ xem duyệt binh v.v., lại hoàn toàn “bất bình thường” trong những xã hội văn minh. Nói theo Michel Foucault thì cách biệt nằm ngay ở mối cân bằng của những cặp giá trị “bình thường – bất bình thường” của từng xã hội, cộng đồng hay thể chế để góp phần hình thành nên đặc tính và diễn ngôn của nó. Như thế, trong mối cân bằng này, phải chăng, cũng tồn tại một tương quan nào đó giữa rác và cờ?
Trước một câu hỏi như thé thì, nhất định, một lần nữa, chúng ta phải quay về với lịch sử, từ vua Minh Mạng. Ngót nghét hai thế kỷ trước, khi nhận ra nạn “nhiều cờ” trong việc binh thì, trên phương diện xã hội, vị vua “việc gì cũng xem xét đến” này còn quan tâm đến rác, nhưng là thứ rác phi vật thể trong mỗi con người, khi công bố “Thập điều” vào năm 1835 nhằm giáo huấn người dân. Ngay từ điều thứ hai, “Chính tâm thuật”, Minh Mạng đã nhấn mạnh là “Làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính đáng trong sạch.”
Bớt cờ trong quân đội, dọn sạch rác trong bụng dạ con người, vị vua này đã xây dựng đất nước thành một cường quốc của khu vực thì, bây giờ, phải chăng, mối cân bằng đã đổi? Ngày hôm nay chúng ta có rất nhiều cờ ở trên đầu trong khi, bụng dạ thì tồn đọng bao nhiêu là rác và, nếu là “cường quốc”, thì chỉ mỉa mai như một “cường quốc cờ”.
Rõ ràng là bụng dạ có ô nhiễm với những rác rưởi phi vật thể nào đó thì chúng ta mới vô cùng xấu xí để, nhìn lên thì thấy cờ mà nhìn xuống chân thì thấy rác, còn nhìn ngang dọc thì thấy cảnh chen lấn, chửi thề và xô xát, đánh nhau, chỉ để được xem đại lễ…
Tham khảo:
- Tô Anh Dũng (Thứ trưởng Ngoại giao): “Khi nhận tiền, bị cáo không nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật”. Trần Văn Tân (Phó Chủ tịch Quảng Nam): “Bị cáo nhận thức rằng đây là tiền doanh nghiệp, không phải tiền ngân sách nên bị cáo nhận”.
Thi xấu, cứng và mềm
- https://www.viet-studies.net/kinhte/VuongTriNhan_NgayDoiHoaBinhDautien.html
- Ghi nhận của Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược, Chương II của phần “Nhà Nguyễn”, viết về Minh Mạng, mang tên “Thánh Tổ (1820 -1840) – Niên hiệu: Minh Mạng”: “Vua Thánh Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại lại hay làm, phàm có việc gì cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành”.
- Dẫn theo Nguyễn Trọng Minh, “Triều Nguyễn với việc tiếp thu tri thức, áp dụng kĩ thuật quân sự phương Tây giai đoạn 1802-1858”
- https://vov.vn/chinh-tri/chu-tich-nuoc-nguyen-xuan-phuc-gui-tang-5000-la-co-cho-cac-ngu-dan-vung-bien-dao-865171.vov?jskey=gublNUPY44NAniKsZlJfsD6PtUZaJisXAg%3D%3D
- https://vanviet.info/van-de-hom-nay/duyet-binh-ma-my-hoi-h/?fbclid=IwY2xjawMidRNleHRuA2FlbQIxMQABHiSdA1HQhcHEt9WGOK2FKp4DOhA7YaPsDnPJY1E0-0FZfQxdDC9-p727VjJy_aem_UhiI8bDWv2-QMUxmyiX-uA
- https://www.businessinsider.com/russia-army-leaves-squalor-poop-in-occupied-homes-fled-sky-2022-10
Và:
- https://laodong.vn/ldt/tin-tuc/500-tinh-nguyen-vien-ra-quan-don-rac-sau-le-dieu-binh-dieu-hanh-tai-ha-noi-1566663.ldo
- “Một cảnh tượng khác hẳn – vừa thô vừa lố, vừa buồn cười vừa đáng sợ. Cứ mỗi mùa “duyệt binh”, người ta không chỉ xem, mà sẵn sàng đánh nhau để được xem. Đám đông như phát cuồng, trải chiếu chờ vài ngày, xếp hàng đi ỉa dài như rắn bò, thuê dịch vụ dắt đi đái, dắt đi… “giải quyết nhu cầu”. Đường phố biến thành chợ người, với đủ thứ dịch vụ ăn theo – bán chỗ đứng, bán ghế nhựa… Người ta không chỉ chen chúc mà còn chửi bới, xô đẩy, đánh nhau, giữa đám đông có cả trẻ con, người già, thỉnh thoảng ngất xỉu. Nếu ngày xưa duyệt binh là một nghi lễ trang trọng, thì nay nó giống một lễ hội phồn thực méo mó, nơi hàng vạn người đi tìm một thứ gì đó để khỏa lấp sự trống rỗng của chính mình.”
Theo Facebook của Hoàng Quốc Dũng:
https://www.facebook.com/quocdung.hoang.319
và: