“Lai tại khứ giao duyên” (Nguyễn Hoàng Văn)

Sau “tân cổ giao duyên” chúng ta lại chứng kiến sự phôi thai của một cuộc giao duyên mới mà tôi tạm đặt tên là “lai tại khứ”. 

“Lai” là vị lai, chỉ chuyện của tương lai, “khứ” là quá khứ, chuyện đã xảy ra rồi và “tại”, hẳn nhiên, là hiện tại, chuyện trước mắt. Nếu “Tân cổ giao duyên”, ra mắt vào giữa thập niên 1960, được giới thưởng ngoạn bình dân đương thời hoan hỉ đón chào thì nay, cuộc giao duyên xuyên thời gian này, lại khiến những ai quan tâm đến vận nước phải đau đớn ngậm cười.

Hình dung một thứ bệnh lạ mà hiện tại y học hoàn toàn mù tịt, chưa hiểu nguyên nhân nhưng lại xuất hiện một thầy lang nào đó, tuyên bố chắc nịch với một phác đồ điều trị mà, đợi hai mươi năm nữa, qua việc cách “tổng kết” từ tiền sử bệnh tật của con bệnh, những phản ứng từ cách điều trị này, ông sẽ chứng minh một cách khoa học rằng đây là cách trị bệnh ưu việt nhất, đúng đắn nhất. Kiểu trị liệu này, xem ra, cũng là một thứ “lai tại khứ giao duyên”.

Mới đây, khi những bộ óc có thẩm quyền định đoạt hướng đi của đất nước đồng lòng với lời khẳng định rằng, qua việc tổng kết 40 năm đổi mới và 50 năm thống nhất đất nước để:

“Đến năm 2045, khi nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao thì chúng ta sẽ có một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam”. [1]

thì, sự thể, có khác nào một thứ “giao duyên” như thế, từ tương lai xây dựng nên cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển quốc gia hiện đang áp dụng.

Tôi chợt nhớ đến Terminator, bộ phim khoa học giả tưởng ba tập sôi động của đạo diễn James Cameron với sự xông xáo của tài tử Arnold Schwarzenegger vạm vỡ. Trong phim những thế lực thiện và tà của tương lai đã ráo riết hành động để thay đổi quá khứ, mà quá khứ của họ chính là hiện tại của chúng ta. Họ lù lù xuất hiện. Họ lạnh lùng can thiệp. Họ dùng bắp thịt hay vũ khí cùng với chút xíu mưu trí hay láu lỉnh để vô hiệu hóa hay bảo vệ những kẻ mà họ tin là vài thập niên sau sẽ ngáng đường hay sẽ tiếp sức cho mình. Và, như có thể thấy ở số phận của vai nữ chính trong The Terminator II – The Judgment Day khi không may sinh ra đứa con trai được xem là sẽ tạo khác biệt trong tương lai mà bị xô đẩy qua bao sóng gió, đã bị xem là bất bình thường khi kể lại những gì mà mình trải qua nên bị tống thẳng vào nhà thương điên. 

Nếu đó là chuyện phim, chuyện giả tưởng thì, trong đời sống thực, liệu có bình thường hay không khi cho rằng “hệ thống lý luận” về con đường “tất yếu” mà dân tộc phải đi giữa năm 2025 này sẽ được trình bày một cách “hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại” vào năm 2045? 

Và nếu, khi sáng tác, những soạn giả tân cổ mang những bài vọng cổ sáu câu ra ngắt đi hai, ba rồi pha vào một khúc “tân nhạc” mang tính tự sự với giọng điệu mùi mẫn để tạo nên sự biến hóa sống động và hứng khởi cho người trình diễn lẫn khán giả, không hiểu những nhà lý luận “lai tại khứ” của năm 2045 sẽ “sáng tác” như thế nào? Có phải ngắt bỏ đi phần “cổ”, là những chuyện rất thực nhưng không mấy hay ho của quá khứ xa, gần? Và cung cách tự sự lúc đó sẽ mùi mẫn như thế nào để bên nghe được sướng tai và phía trình diễn được ngọt miệng?

Sinh thời, vào thập niên 1960, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. [2] Bây giờ, nếu phải đợi chừng ấy thời gian mà, tính theo “đại hội bản vị” là bốn đời Trung ương, thì, hóa ra, lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong quá khứ hay hiện tại là hoàn toàn thiếu hoàn chỉnh, thiếu khoa học, là nói suông? 

Bởi thế, trong khi những bài tân cổ, thường, hoặc là quá bi lụy giọng mùi hoặc chỉ đơn thuần là chọc cười bằng giọng tưng tửng thì hệ thống lý luận “lai tại khứ” này, chưa gì, đã trớ trêu cả hai yếu tố bi hài.

Bi và hài như câu chuyện bi thảm vì bệnh sỉ của vợ chồng Loisel, hai nhân vật trong truyện ngắn “La Parure” của Guy de Maupassant. Lỡ đánh mất cái vòng kim cương hỏi mượn để khoe mẽ trong một dạ tiệc, họ phải hy sinh gần như cả cuộc đời để trả nợ nhưng, cuối cùng, mới phát hiện rằng cái vòng đi mượn ấy chỉ là một thứ đồ giả. [3] Chưa cần cái lý luận ấy ra đời, chỉ cần lời hứa hẹn về hai mươi năm nữa, đã thấy sự vô nghĩa trong sự hy sinh của bao nhiêu thế hệ trong quá khứ và sự lố bịch của màn kịch “niềm tin” trong hiện tại.

Mặt khác, đã ba phần tư thế kỷ nay người Việt bị sống bằng chữ “sẽ” và, đến tận hôm nay, mới nhận ra rằng cả tính chính đáng của con đường phải chọn kia cũng chỉ sử dụng với thì tương lai. 

Hình dung một bó cỏ non xanh mướt treo lủng lẳng dưới cái cần câu trước mặt con ngựa đang ì ạch kéo cỗ xe nặng nề. Con ngựa vẫn cố rướn với cả sức lực chỉ vì cái chữ “sẽ” ấy, vì tưởng rằng chỉ một hai bước nữa thôi nó sẽ được thưởng thức vị cỏ xanh ngọt ngào. Tuy nhiên bây giờ, phức tạp hơn hay buồn cười hơn, bên miếng mồi cỏ xanh ấy còn lủng lẳng cả thứ mồi bằng “lý luận”, theo đó trong tương lai nó sẽ nhận ra “tính tất yếu” của việc rướn tới vì mớ cỏ non ấy.

Nhưng nói đến tương lai đất nước thì phải nói đến vị trí của quốc gia so với các lân bang mà, trong ngôn ngữ hàn lâm, là đặt trong cái nhìn đồng đại chứ không phải lịch đại. Cứ tin là hai mươi năm nữa đất nước có thể sẽ “phát triển, có thu nhập cao” nhưng liệu mức phát triển đó có sánh nổi hay vươn xa so với với các lân bang đang qua mặt mình hay không? 

Để làm được điều này thì phải có chiến lược giáo dục và đường hướng phát triển tối ưu, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Nhưng oái oăm thay, đó lại là một phần trong “hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại” về “con đường đi lên” mà, ít nhất, phải chờ hai mươi năm nữa mới sờ tới được. Hiện tại chúng ta vẫn hoàn toàn mù mờ về việc chọn lựa con đường phát triển, cách phân bổ tài nguyên, cách giáo dục thế hệ trẻ v.v. nhưng chúng ta lại bị bắt phải tự tin rằng, hai mươi năm sau, sẽ có cách chứng minh rằng đó là chọn lựa tối ưu. 

Cái logic kỳ dị này làm tôi nhớ đến câu đồng dao thời trẻ: “Kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha cắc ké, cắc ké mẹ kỳ nhông”. Thứ bậc tréo ngoe và, thậm chí, tình trạng “dẫm lên quá khứ” trong lời đùa của con trẻ này có khác nào sự tréo ngoe của cuộc giao duyên kỳ quái, kết hợp một tương lai chưa biết thế nào với một hiện tại đầy phân vân và một quá khứ đầy sai lầm nhưng bị “ngắt bỏ”, giống như thể những soạn giả tân cổ ngắt bớt phần cổ để thay vào mấy câu tân cho thêm phần biến hóa, cho ngọt miệng người trình diễn và cho đã tai người nghe?

Nguyễn Hoàng Văn

(16/11/2025)

Tham khảo:

  1. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-du-thao-bao-cao-tong-ket-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-cong-cuoc-doi-moi-theo-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-trong-40-nam-qua-o-viet-nam-11925101609232867.htm
  2. https://thads.moj.gov.vn/tuyenquang/noidung/tintuc/Lists/ThongTinKhac/View_Detail.aspx?ItemID=167
  3. Có thể đọc truyện ngắn này, bản tiếng Việt hay tiếng Anh tại các trang này:
    https://vanvn.vn/soi-day-chuyen-kim-cuong-truyen-ngan-guy-de-maupassant/
    https://www.yeyebook.com/en/guy-de-maupassant-short-story-the-necklace-full-english-text

About the author