Bàn về tiến trình sụp đổ của chế độ cộng sản (Chu Tuấn Anh)

1.     Thiên triều đã sụp đổ?

Đảng Cộng Sản Việt Nam đã luôn nhìn Trung Quốc như một mô hình chính trị đáng để học hỏi, và niềm tin rằng không cần suy tư, viễn kiễn chính trị: Đảng CSVN chỉ cần đem về những chính sách kinh tế- chính trị của Trung Quốc áp dụng máy móc cho đất nước là đủ để có thể giúp họ tiếp tục tồn tại.

Điều mà họ không biết rằng, Trung Quốc có những thời điểm đã thực sự nhìn dân chủ hóa như một giải pháp để cứu nguy cho chế độ. Họ đã chỉ thực sự không dân chủ hóa được vì Trung Quốc là một đế quốc và việc từ bỏ chủ nghĩa cộng sản (một thứ chủ nghĩa Khổng Giáo cải tiến đã cho phép duy trì chủ nghĩa tập quyền, toàn trị) sẽ dẫn đến sự tan rã của đế quốc: không thể có một Trung Quốc dân chủ với diện tích, lãnh thổ hiện tại. Nhưng Việt Nam chưa bao giờ là một đế quốc, vì chúng ta đã có sinh hoạt của một quốc gia và hoàn toàn có thể dân chủ hóa với một tiến trình ôn hòa với một dân số và lãnh thổ hiện tại.

Bài viết này là một cố gắng nhìn lại một giai đoạn Trung Quốc đã trải qua từ Đại nhảy vọt, và Cách mạng Văn hóa; để rồi đi đến một thời kỳ bắt đầu từ giữa thập niên 70 tới cuối thập niên 80 khi họ loay hoay giữa một con đường dân chủ hóa và cởi mở về kinh tế nhưng giữ độc tài về chính trị. Lập trường cởi mở về kinh tế, nhưng giữ độc tài về chính trị đã thắng thế, nhưng câu hỏi sẽ phải đặt ra là lần này cả đảng Cộng Sản Trung Quốc và đảng Cộng Sản Việt Nam có thể tiếp tục duy trì con đường độc tài chính trị khi những nhu cầu thay đổi đang lớn dần với thời gian được quần chúng và ngay trong chính nội bộ của chế độ đặt ra?

2.     Một giai đoạn lịch sử cần được nhìn lại

Thực ra chế độ Cộng sản Trung Quốc đã bộc lộ những vấn đề từ rất sớm khi Mao Trạch Đông đề ra chính sách Đại nhảy vọt: dùng chủ nghĩa tập thể để gia tăng sản lượng công nghiệp của Trung Quốc từ những năm 1958 cho tới 1962. Hậu quả là 15 triệu người chết đói.

Giai đoạn tiếp đó, Mao Trạch Đông đã đẩy tình trạng suy sụp của Trung Quốc lên cao trào khi theo đuổi một cuộc cách mạng văn hóa vào những năm 1966-1976 dùng khủng bố để tiêu diệt trí thức, những người có học thức, tiếng nói bất đồng chính kiến, đóng cửa trường đại học, đưa người thành thị đi lao động cưỡng bức ở nông thôn; và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến 1-2 triệu người tử nạn.

Sau khi lập trường khủng bố của Mao Trạch Đông bị nhìn nhận như một sai lầm, Đặng Tiểu Bình thắng thế trong quân đội và nắm vai trò là bí thư Quân ủy Trung Ương và nhà lãnh đạo tối cao thực tế của Trung Quốc (sau khi bị loại bỏ đến hai lần trong cuộc cách mạng văn hóa). Đặng Tiểu Bình đã đưa hai nhân vật là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương lên làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc trong các giai đoạn từ 1980-1989.

Hồ Diệu Bang thuộc lớp lãnh đạo gạo cội đã từng tham gia Vạn lý trường trinh và gắn bó với nhóm người Mao Trạch Đông hơn, còn Triệu Tử Dương là một nhà lãnh đạo trẻ và có phần cởi mở hơn. Nhưng cả hai đã cùng đi đến một kết luận là phải dần chuyển đổi sang kinh tế thị trường, dân chủ hóa Trung Quốc và cho phép những quyền tự do ngôn luận, quyền con người căn bản, không đàn áp mà đối thoại với các cuộc biểu tình học sinh-sinh viên thời điểm bấy giờ. Hồ Diệu Bang cho rằng chẳng có điều gì trong lý thuyết Mao Trạch Đông cần cho sự phát triển của Trung Quốc trong giai đoạn hiện đại (nghĩa là phải phủ nhận lập trường trung kiên với chủ nghĩa cộng sản của Mao Trạch Đông), còn Triệu Tử Dương thì còn đi xa hơn là kêu gọi tách biệt đảng ra khỏi chính quyền ngay trong thời gian còn tại vị, thậm chí là dân chủ hóa triệt để trong thời gian bị câu lưu tại nhà khi bị phế truất.

Hồ Diệu Bang hay Triệu Tử Dương thực chất chỉ là những cận thần của Đặng Tiểu Bình được đưa lên để thực hiện những biện pháp cải tổ cần thiết giúp Trung Quốc vượt qua đống đổ nát giai đoạn Đại nhảy vọt và Cách mạng văn hóa. Nhưng họ là những người có sự đứng đắn và những suy nghĩ lương thiện nhất định và cùng đưa ra một kết luận là cần phải dân chủ hóa Trung Quốc- nghĩa là dần phải bỏ chủ nghĩa cộng sản chứ không thể hành xử theo đúng vai trò được giao là tiếp tục duy trì chủ nghĩa cộng sản.

Việc Đặng Tiểu Bình và quân đội Trung Quốc đã truất phế hai nhà lãnh đạo này để đi theo một con đường cải cách “cởi mở về kinh tế, nhưng giữ độc tài về chính trị” đã thực sự chỉ có thể thực hiện được vì chủ nghĩa thực tiễn của giới lãnh đạo Hoa Kỳ và phương Tây và chiến lược thiển cận của Kissinger hậu thuẫn Trung Quốc mạnh lên để kiềm chế Liên Xô, và một phong trào toàn cầu hóa xô bồ sau đó.

Dù vậy, ngay cả khi đàn áp thô bạo phong trào Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình cũng hiểu rằng không thể chống lại xu hướng cởi mở, ông đã nói rõ với Giang Trạch Dân- một người có xu hướng thủ cựu là: “Quân đội đã ủng hộ xu hướng cải tổ, và ông không thể chống lại nó”. Đặng Tiểu Bình cũng không có một giải pháp ngoài dân chủ hóa nếu ở một bối cảnh thế giới mà phe dân chủ kiên quyết hơn, vì nếu thực sự xác quyết có thể duy trì chủ nghĩa độc tài ông đã không kiên nhẫn với cả Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương như vậy, sau khi Hồ Diệu Bang thất thế thì ông ủng hộ Triệu Tử Dương một nhà lãnh đạo trẻ hơn và còn kiên quyết với dân chủ hơn. Có lẽ quyết tâm duy trì chế độ độc tài có được chỉ là vì Đặng Tiểu Bình đã xác quyết rằng chính trị phương Tây sẽ tiếp tay cho Trung Quốc ở mọi trường hợp.

3.     Con đường Đặng Tiểu Bình có thực sự thành công?

Nhưng nếu nhìn lại toàn bộ quá trình cải tổ, cởi mở của Trung Quốc, chúng ta không thể coi xu hướng cởi mở của Đặng Tiểu Bình như một sự thành công như nhiều người nghĩ. Điều đầu tiên có thể thấy rõ ràng là Trung Quốc với một dân số, một tài nguyên, và tầm vóc địa chính trị như vậy thì việc dành vai trò cường quốc sản xuất không có gì là khó hoặc một thành tựu lớn ngoại trừ đó là một đặc ân phương Tây và những lãnh đạo phong trào toàn cầu hóa đã trao cho Trung Quốc mà thôi. Dù thế, Trung Quốc hiện nay vẫn chỉ là đất nước có thu nhập trung bình cao vào ngưỡng 13,000 đô la- thua kém với toàn bộ khối Đông Á dân chủ (ở mức 36,000 đô la), và bất cứ quốc gia Đông Âu nào đã lựa chọn con đường dân chủ hóa (Ba Lan có mức thu nhập bình quân đầu người là 22,000 đô la trong khi vẫn là một nền kinh tế còn tăng trưởng).

Ngày hôm nay, mô hình tăng trưởng của Trung Quốc đã đạt đến giới hạn phát triển và có thể không cạnh tranh được với những nước dân chủ mới nổi chẳng hạn như Malaysia về mức độ tăng trưởng đầu người trong thời gian tới.

4.     Tập Cận Bình chạy trốn về phía trước

Sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới từ năm 2009 thì mô hình kinh tế của Trung Quốc đã phải chịu xét lại nhưng đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chỉ chạy trốn về phía trước bằng cách tiếp tục bơm vào ngành xây dựng và xuất khẩu năng lực xây dựng dư thừa sang những nước đang phát triển. Xu hướng cởi mở vốn có ban đầu đã phải nhường chỗ cho một thái độ thù địch với Hoa Kỳ và phương Tây và một tham vọng bá quyền mà Tập Cận Bình đã bộc lộ rõ, đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng ngoại giao với chính quyền Obama năm 2014. Tất nhiên, Tập Cận Bình không phải Mao Trạch Đông và sự đàn áp gia tăng của Tập Cận Bình không thấm tháp gì với cuộc Cách mạng văn hóa, nền kinh tế Trung Quốc kể từ năm 2014 vẫn tiếp tục tăng trưởng về quy mô.

Nhưng vào năm 2025 thì giấc mơ vươn mình để trở thành một nước giàu của Trung Quốc đã không còn: con đường kinh tế sản xuất để xuất khẩu, phát triển dựa trên xây dựng- bất động sản và đầu tư công đã không còn có thể tiếp tục; mặt khác những gói bơm tài chính khổng lồ để phát triển tiêu dùng nội địa đã không đạt được những kết quả mong muốn. Mọi động lực phát triển kinh tế của Trung Quốc đã không còn nữa. Tầng lớp trung lưu ở các đô thị lớn cũng đang sụp đổ theo sự sụp đổ của bất động sản dù chế độ đang cố gắng thúc đẩy kinh tế tư nhân và tiêu dùng nội địa dù là bơm những khoản tiền lớn trong đó có kế hoạch bơm hơn 325 tỷ đô la vào nền kinh tế và trong đó có 41 tỷ đô la để thúc đẩy tiêu dùng. Nhưng điều vô vọng hơn là tư tưởng cộng sản không thể tiếp tục tồn tại Trung Quốc dù nó vẫn phải được cố gắng duy trì trên biểu ngữ, diễn ngôn.

Chúng ta sẽ không bất ngờ khi thấy quyền lực Tập Cận Bình suy giảm, và một lực lượng đòi cởi mở sẽ nổi lên trên vũ đài chính trị Trung Quốc. Những đòi hỏi dân chủ hóa đang xuất hiện trở lại trên khắp xã hội. Nhưng đế quốc Trung Quốc chưa có một lời giải cho bài toán giải thể, và chủ nghĩa cộng sản vẫn nằm ở lại đó vì không có người tiễn đưa nên Trung Quốc sẽ rơi vào một thời kỳ kéo dài trong hỗn loạn kể từ sau năm 2025. Càng thêm hỗn loạn vì con đường Tập Cận Bình đã theo đuổi đã đưa họ vào bế tắc, con đường của Đặng Tiểu Bình không thể tiếp tục trở lại, và những người thực tâm như Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương có thể không còn nữa vì họ đã triệt tiêu những người này một cách hung bạo.

Dù vậy cũng cần nhấn mạnh là Việt Nam không phải là Trung Quốc và chúng ta không cần lựa chọn hỗn loạn vì không thể giải thể được chế độ cộng sản ở quê hương mình.

5.     Chế độ Cộng Sản đã không còn có thể sửa chữa

Kể từ khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời vào 7/2024, ông Tô Lâm đã trở thành tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam và cũng trở thành nhà lãnh đạo trên thực tế của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ở giai đoạn đầu, ông Tô Lâm đã nhìn ra được một số thực tế của chế độ và đất nước như tình hình ngân sách và bộ máy cồng kềnh, bẫy thu nhập trung bình (thấp), một nền kinh tế gia công bậc thấp với lao động rẻ mạt, và “nguy cơ tụt hậu (vĩnh viễn) nếu không tìm ra được con đường mới phát triển đất nước. Nhưng vì lảng tránh giải pháp duy nhất là dân chủ hóa đất nước, nên ông Tô Lâm đã chẳng thể đưa ra được một giải pháp nào.

Trong những nghị định 68 về phát triển Kinh tế tư nhân, Nghị quyết 57 về Hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới, Nghị quyết 59 về Phát triển khoa học Công Nghệ, định hướng phát triển kinh tế tư nhân sớm bị bóc trần sau làn sóng giải thể của doanh nghiệp tư nhân vẫn đang kéo dài và làn sóng đóng cửa, trả mặt bằng của tiểu thương sau chính sách thuế cay nghiệt mà ông Tô Lâm và chế độ đặt ra; hai định hướng còn lại là Hội nhập và phát triển khoa học kỹ thuật sẽ đi vào quên lãng vì khả năng Hội nhập của chế độ Cộng sản Việt Nam hay bất cứ chế độ “cởi mở về kinh tế, độc tài về chính trị” sẽ bị xét lại trong một bối cảnh thế giới mới, và phát triển Khoa Học Kỹ Thuật sẽ không thể có được nếu không nhìn nhận dân chủ và quyền con người. Đảng Cộng Sản Việt Nam đang đứng giữa những lựa chọn mà thực tế không còn lựa chọn:

·       Con đường của Đặng Tiểu Bình nghĩa là cải tổ kinh tế nhưng vẫn duy trì bộ máy độc tài đã không còn đặt ra khi đảng Cộng Sản Việt Nam đã học tập và đi hết chặng đường đó rồi. Những cố gắng bơm thổi nền kinh tế sẽ sớm bị nhận diện với một tình trạng đất nước ngày càng xấu đi và suy sụp về mọi mặt. Hơn nữa cũng đã không có những học thuyết Kissinger cần phải yểm trở Trung Quốc để đánh Liên Xô (nếu có thì cũng chỉ là cơ hội mà Obama và phương Tây đã trao cho Việt Nam vào năm 2014), cũng không còn những con người thực tiễn cho rằng có thể đặt nhu cầu hợp tác kinh tế lên trên ưu tư nhân quyền ở thời đại chủ nghĩa thực tiễn đã phá sản.

·       Những xu hướng làm kinh tế hoang dại dựa trên đầu tư công, phát triển ngành xây dựng, những đại dự án mà chính quyền ông Phạm Minh Chính tô vẽ ra là không có thực với một bối cảnh thế giới đang ở trong một cuộc khủng hoảng về nợ và tình trạng eo hẹp ngân sách. Mặt khác, tình trạng kiệt quệ về ngân sách đang diễn ra trong chế độ không cho phép những dự án đường sắt Bắc Nam, dự án điện hạt nhân trở thành hiện thực.

·        Ở Tô Lâm, giờ đây người ta sẽ chỉ còn nhìn thấy bộ mặt tàn bạo công an trị hơn là bộ mặt của người cải tổ: nạn cướp bóc trong quần chúng gia tăng và một cuộc tinh giản, sáp nhập các cấp chính quyền phục vụ cho mưu đồ đấu đá chính trị, bổ nhiệm những người của phe Hưng yên vào kiểm soát bộ máy. Nhưng ông Tô Lâm không hiểu rằng ngay cả có những người lương thiện, thực tâm cải tổ, dân chủ hóa như Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương trong khuôn khổ đảng cộng sản cũng không giúp đảng cộng sản Việt Nam, hoặc nhóm Hưng Yên của ông Tô Lâm thành công. Một người đã được trao cơ hội để đi xa hơn là Gorbachev đã thất bại.

Nhưng tình hình cũng không thực sự tuyệt vọng với đất nước Việt Nam ngay cả khi nếu đảng Cộng Sản Việt Nam hết sự lựa chọn. Những lực lượng đòi hỏi dân chủ hóa đang hiện diện ở Việt Nam, việc chế độ bắt Trần Khắc Đức và Quách Gia Khang vì đấu tranh đòi dân chủ đa nguyên hay tham gia Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chỉ là sự xác nhận rằng họ tồn tại và đại diện cho một lực lượng chính trị. Chúng ta không phải là một đế quốc như Trung Quốc, và không thiếu vắng một lực lượng chính trị để dân chủ hóa và phải trông cậy vào cá nhân Gorbachev như những gì đã xảy ra ở Liên Xô.

Khi Tô Lâm thất bại một cách rõ ràng trong tháng ngày tới thì đó chỉ là sự xác nhận chủ nghĩa cộng sản không thể tồn tại, chế độ cộng sản không thể sửa chữa, sự tàn bạo của Tô Lâm để duy trì trật tự hay cố gắng cải tổ dù thực tâm của một ai khác trong khuôn khổ chế độ không phải là một giai pháp. Đất nước chúng ta chỉ có một lựa chọn, nhưng là lựa chọn xứng đáng và phẩm giá nhất: con đường dân chủ đa nguyên trên tinh thần bất bạo động và hòa giải dân tộc.

Chu Tuấn Anh

About the author