Chào các bạn, tôi là Nguyễn Trần Đặng, cảm ơn các bạn đã có nhã ý theo dõi kênh Bàn Việc Nước.
Trong video trước, Cải Cách Thể Chế – Thành Công Hay Thất Bại, tôi đã phân tích rằng chương trình cải cách của ông Tô Lâm chắc chắn sẽ thất bại bởi vì những cải cách đó mâu thuẫn với bản chất của chế độ.
Vậy thì hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhìn lại kinh nghiệm cải cách của các chế độ cộng sản trên thế giới cũng như kết quả của những cuộc cải cách đó, để rút ra một kết luận là Đảng Cộng Sản Việt Nam nên cải cách như thế nào.
Nhưng để hiểu về những lựa chọn cải cách của các chế độ cộng sản khác, trước hết chúng ta cần nói sơ qua về chủ nghĩa Mác-Lênin. Nói một cách tổng quát thì tư tưởng của chủ nghĩ Mác-Lênin gồm 2 thành phần: kinh tế và chính trị.
Về chính trị thì tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin là chuyên chính vô sản, có nghĩa là đảng cộng sản giành độc quyền lãnh đạo đất nước bằng cách kiểm soát guồng máy nhà nước, quân đội và công an. Người dân không có quyền tự do phát biểu, các cuộc bầu cử chỉ mang tính hình thức, và mọi tổ chức đối lập đều bị cấm hoạt động.
Về kinh tế thì chủ nghĩa Mác-Lênin chủ trương kinh tế kế hoạch hay kinh tế tập thể, trong đó mọi phương tiện sản xuất như nhà máy, xí nghiệp, hay ruộng đồng đều thuộc về nhà nước. Sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, giá bao nhiêu hay bán cho ai đều do nhà nước quyết định.
Chính đường lối kinh tế tập thể này đã là nguyên nhân khiến người dân ở các nước cộng sản rơi vào cảnh nghèo đói không lối thoát. Người dân Việt Nam còn gọi XHCN, viết tắt của Xã Hội Chủ Nghĩa, là Xuống Hố Cả Nước.
Đối diện với một cuộc khủng hoảng kinh tế sâu rộng và khủng hoảng lòng tin của nhân dân, các nước cộng sản có 3 cách ứng xử.
Cách thứ nhất là cải cách toàn diện về kinh tế lẫn chính trị, nghĩa là từ bỏ kinh tế tập thể và chuyên chính vô sản để chuyển sang kinh tế thị trường và dân chủ tự do. Đây là lựa chọn của các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô. Tuy nhiên không phải nước nào cũng có kết quả giống nhau. Tôi tạm chia các nước này thành 2 trường hợp là thành công và thất bại. Những quốc gia thành công nhất là Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc (về sau tách thành Cộng hòa Séc và Slovakia), hay các nước vùng Baltic như Latvia, Estonia và Lithuania. Những nước này đã thành công bởi vì quá trình chuyển hóa về dân chủ diễn ra trong tinh thần ôn hòa và có trật tự. Giới trí thức của họ đã có tổ chức, có sự chuẩn bị và biết phải làm gì một khi chế độ cộng sản cáo chung. Hiện nay, GDP bình quân đầu người của họ dao động từ 23 ngàn đô la cho đến 31 ngàn đô la, cao hơn nhiều so với mức trung bình thế giới là 13 ngàn đô la.
Có 2 nước khác cũng dân chủ hóa thành công nhưng là hai trường hợp đặc biệt, đó là Đông Đức và Romania. Đảng Cộng Sản Đông Đức chấp nhận từ bỏ chuyên chính vô sản để trở thành một nước tự do dân chủ nhưng lại không chấp nhận kinh tế thị trường mà giữ lại kinh tế tập thể. Họ làm vậy là vì muốn duy trì nền độc lập của Đông Đức thay vì bị sáp nhập vào Tây Đức bởi vì không có lý do gì để duy trì 2 nước Đức cùng áp dụng mô hình dân chủ tự do và kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sau khi phe dân chủ giành được chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội tự do đầu tiên ở Đông Đức, họ đã ngay lập tức biểu quyết sáp nhập Đông Đức vào Tây Đức. Nước Đức thống nhất trong hòa bình và trở thành quốc gia giàu mạnh nhất ở châu Âu.
Khác với giới lãnh đạo Đông Đức, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Romania là Nicolae Ceausescu từ chối mọi cải cách. Khi người dân biểu tình phản đối chính quyền, ông còn ra lệnh cho lực lượng an ninh bắn vào đoàn biểu tình và làm chết nhiều người. Cuối cùng, quân đội tiến hành đảo chính. Vợ chồng tổng bí thư Ceausescu bị quân đội bắt giữ và xử bắn ngay trong ngày lễ Giáng Sinh. Sau đó quân đội bàn giao chính quyền cho phe dân sự để tổ chức bầu cử tự do. Kể từ lúc đó Romania trở thành một nước dân chủ. Dù quá trình chuyển hóa về dân chủ không được suôn sẻ như các nước kia nhưng hiện nay Romania vẫn là một nước dân chủ ổn định và GDP bình quân đầu người vẫn đạt 19 ngàn đô la nên cũng tạm coi là thành công.
Ngược lại với những trường hợp thành công đó thì Nga, Belarus, và Ukraine là những trường hợp thất bại. Các nước này đều có bầu cử tự do sau khi chính quyền Liên Xô sụp đổ. Ban đầu, cả tổng thống Nga Putin và tổng thống Belarus Lukashenko đều được bầu lên một cách dân chủ. Nhưng sau đó cả hai đã tìm cách thâu tóm quyền lực và trở thành những nhà độc tài cá nhân. Còn Ukraine, sau khi Liên Xô sụp đổ thì nước này còn trải qua thêm 2 cuộc cách mạng nữa là Cách mạng Cam và Cách mạng Maidan, trong đó cuộc Cách mạng Maidan đã có hàng trăm người chết và hàng ngàn người bị thương. Lý do tiến trình dân chủ bị đảo ngược tại Nga và Belarus và gặp nhiều trắc trở tại Ukraine là do những người dân chủ đã thiếu sự chuẩn bị và bối rối không biết phải làm gì sau khi Liên Xô sụp đổ một cách đột ngột. Mặc dù vậy, nếu được chọn thì người dân của cả ba nước này cũng không bao giờ muốn quay trở lại thời Liên Xô, cái thời mà họ phải xếp hàng để mua bánh mỳ. Hy vọng rằng sau khi cuộc chiến ở Ukraine kết thúc, chế độ độc tài của Putin và Lukashenko sẽ chấm dứt để nhường chỗ cho những chế độ dân chủ và cả ba nước sẽ có hòa bình và thịnh vượng.
Trong khi các chế độ cộng sản tại châu Âu cải cách toàn diện về kinh tế lẫn chính trị thì ba nước cộng sản tại châu Á là Triều Tiên, Trung Quốc, và Việt Nam đã phản ứng theo những cách khác.
Trong đó, Triều Tiên quyết định giữ nguyên nền kinh tế tập thể và chế độ độc tài cha truyền con nối, nghĩa là không làm gì. Sở dĩ Đông Đức có thể sáp nhập một cách hòa bình với Tây Đức là vì giữa hai nước này chưa từng xảy ra chiến tranh và chính quyền Đông Đức cũng không gây ra nhiều tội ác. Trái lại, gia đình nhà họ Kim đã phát động nội chiến năm 1950 làm chết 3 triệu dân thường, đã đày đọa hàng triệu người Triều Tiên trong cảnh đói khổ và gây ra những tội ác kinh khủng, trong đó có vụ đánh bom máy bay của hãng Korean Air khiến toàn bộ 115 người trên đó thiệt mạng. Với những tội ác như vậy thì chỉ cần thực hiện bất kỳ cải cách nào, dù là kinh tế hay chính trị, thì một khi mở cửa với thế giới, người dân Triều Tiên sẽ biết rằng họ đã bị lừa và sẽ không để yên cho gia đình họ Kim. Ngày nay thì Triều Tiên là một nơi nghèo đói, tối tăm, và cuộc sống ở đó không khác gì địa ngục.
Khác với Triều Tiên lẫn các nước cộng sản ở châu Âu, Trung Quốc và Việt Nam chọn cách thứ ba là cải cách về kinh tế nhưng không cải cách chính trị, tức là chấp nhận kinh tế thị trường nhưng giữ nguyên chế độ độc tài. Nhờ mở cửa nền kinh tế mà đời sống của người dân hai nước được cải thiện. Trung Quốc từ một nước có hàng chục triệu người chết đói dưới thời Mao Trạch Đông đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp và dẫn đầu thế giới trong một số lĩnh vực công nghệ. Tương tự, Việt Nam từ một nước đói ăn đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, Trung Quốc đã đi đến giới hạn phát triển mà một chế độ độc tài mở cửa về kinh tế có thể đạt được. Cách đây 5 năm giới chuyên gia còn bàn với nhau khi nào thì Trung Quốc sẽ vượt qua Mỹ về quy mô GDP để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nhưng bây giờ thì vấn đề đó không đặt ra nữa.
Trung Quốc hiện nay đang gặp khủng hoảng lớn. Tuy là một cường quốc về sản xuất nhưng bất động sản vẫn là ngành lớn nhất và chiếm tới 30% nền kinh tế. Khủng hoảng bất động sản đã khiến cho người dân Trung Quốc nghèo đi bởi vì đa số người mua nhà đều vay mượn từ ngân hàng, dù giá nhà giảm nhưng họ vẫn phải trả tiền lãi hàng tháng. Điều này kéo theo sự sụt giảm về chi tiêu khiến cho Trung Quốc rơi vào tình trạng giảm phát, mà giảm phát thì còn nguy hiểm hơn nhiều so với lạm phát vì nó tạo ra một vòng xoáy giảm giá và phá sản. Không những vậy, dân số Trung Quốc bắt đầu giảm và ngày càng già đi. GDP bình quân đầu người của Trung Quốc hiện là 13 ngàn đô la, bằng mức trung bình thế giới. Đến đây sẽ có người biện hộ cho Trung Quốc rằng do dân số của Trung Quốc quá đông nên tính theo GDP đầu người thì Trung Quốc không bằng các nước khác, nhưng nếu chỉ so dân chúng ở các thành phố lớn thì Trung Quốc không thua nước nào. Theo tôi thì sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị hay giữa vùng duyên hải và nội địa là tình trạng tự nhiên mà nước nào cũng có chứ không riêng gì Trung Quốc. Một thí dụ là Mỹ, bờ đông và bờ tây của họ phát triển hơn hẳn vùng trung tâm. Nhưng nông dân ở Mỹ thì có cuộc sống tốt hơn nông dân Trung Quốc.
Mặc dù Trung Quốc có nhiều thành tựu về xe điện, đường sắt cao tốc, hay trí tuệ nhân tạo nhưng cũng như Liên Xô trước đây có công nghệ hàng đầu thế giới về hàng không vũ trụ, các chế độ độc tài có thể dồn nguồn lực của đất nước vào một vài lĩnh vực và khiến chúng phát triển nhanh chóng. Nó không khác gì các Pharaoh ngày xưa bắt dân Ai Cập xây kim tự tháp hay các hoàng đế Trung Hoa bắt dân chúng xây Vạn Lý Trường Thành.
Vậy còn Việt Nam thì sao? Sau 40 năm đổi mới thì Việt Nam vẫn là nước tăng trưởng dựa trên bán sức lao động giá rẻ. Theo số liệu của Cục Thống Kê Quốc Gia, Việt Nam đang có 53 triệu người trong độ tuổi lao động nhưng hơn 70% trong số này, tức là khoảng 38 triệu người, là những người lao động chưa qua đào tạo, tức là không có bất kỳ bằng cấp hay chứng chỉ nào. Hoạt động sản xuất vẫn chỉ là gia công lắp ráp và hoàn toàn lệ thuộc vào thị trường nước ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Ngành bất động sản cũng đang gặp khủng hoảng. Giáo dục thì lạc hậu. Tham nhũng đã đạt đến mức độ trầm trọng hết thuốc chữa. Và chỉ trong 2 thập niên nữa, Việt Nam sẽ đối mặt với tình trạng dân số già.
Nói tóm lại, sau 47 năm cải cách ở Trung Quốc và 40 năm ở Việt Nam, cả hai nước đều rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Nhân tiện thì xin được mở một dấu ngoặc để giải thích về bẫy thu nhập trung bình. Khi một nước bắt đầu mở cửa nền kinh tế thì sẽ đạt được mức tăng trưởng rất cao nhờ lợi thế về dân số trẻ, mức lương thấp, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sau vài thập niên, thì những lợi thế ban đầu không còn nữa khi dân số bắt đầu già đi, mức lương ngày càng tăng lên, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, đầu tư nước ngoài sụt giảm khiến cho đà tăng trưởng bị chững lại và đất nước rơi vào trì trệ. Thu nhập trung bình của thế giới hiện nay là 13 ngàn đô la một năm và mức tăng trung bình là 3.3 phần trăm. Nếu sau vài thập niên mà thu nhập đầu người lẫn tốc độ tăng trưởng của một nước không thể vượt qua mức trung bình thế giới thì coi như nước đó đã sập bẫy thu nhập trung bình.
Trong một video trước, tôi đã nói về 3 giai đoạn phát triển của một nền kinh tế:
– Giai đoạn thứ nhất là từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp đơn giản và sản xuất các mặt hàng thiết yếu như quần áo, giày dép, thực phẩm, bàn ghế. Ở giai đoạn này thì lực lượng lao động dồi dào và mức lương thấp là lợi thế cạnh tranh của đất nước.
– Giai đoạn thứ hai là từ một nước công nghiệp đơn giản trở thành một nước công nghiệp kỹ thuật cao. Lúc này, nền kinh tế bắt đầu sản xuất ra những sản phẩm phức tạp hơn, thí dụ như tivi, điện thoại, máy tính, hoặc xe hơi. Ở giai đoạn này thì mức lương thấp không còn là lợi thế cạnh tranh nữa mà cơ sở hạ tầng cũng như trình độ và tay nghề của người lao động mới là yếu tố quan trọng nhất.
– Giai đoạn cuối cùng là trở thành một nền kinh tế dịch vụ, trong đó ngành dịch vụ chiếm khoảng 60% GDP trở lên. Dịch vụ là tên gọi chung cho tất cả lĩnh vực không phải sản xuất, thí dụ như tin học, giáo dục, y tế, tài chính, du lịch, giải trí, bảo hiểm, v.v. Ở giai đoạn này thì tri thức cũng như sự sáng tạo là yếu tố quyết định. Do đó mà người ta hay gọi giai đoạn này là nền kinh tế tri thức.
Sau hàng thập niên đổi mới thì Trung Quốc đang ở giai đoạn thứ hai còn Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn thứ nhất. Qua mỗi giai đoạn thì mức lương của người lao động lại cao hơn. Do đó, nỗ lực thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình cũng chính là chặng đường đi từ một nước nông nghiệp trở thành một nền kinh tế tri thức.
Mới đây, tờ báo uy tín The Economist có một bài viết về tổng bí thư Tô Lâm, trong đó viết rằng ông Tô Lâm là một nhà cải cách và chương trình cải cách ông là cơ hội cuối cùng để Việt Nam trở thành một nước có thu nhập cao trước khi dân số già đi. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng ông Tô Lâm không phải là một nhà cải cách thực sự và chương trình cải cách của ông cũng sẽ không đi tới đâu.
Như chúng ta đã phân tích, Việt Nam vốn đã từ bỏ một nửa chủ nghĩa Mác-Lênin là chính sách kinh tế tập thể để áp dụng kinh tế thị trường từ 40 năm qua. Bây giờ ông Tô Lâm ra nghị quyết 68 nhấn mạnh kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thì chỉ là một thay đổi nhỏ xíu bởi vì một nửa còn lại của chủ nghĩa Mác-Lênin là chuyên chính vô sản vẫn được giữ nguyên.
Muốn phát triển kinh tế tư nhân thì phải có ít nhất hai điều kiện. Thứ nhất là phải chống được tham nhũng bởi vì các nước tham nhũng đều tạo ra một tầng lớp gọi là “tư bản phe cánh”, những người này làm giàu nhờ xây dựng mối quan hệ với các quan chức thay vì đầu tư vào nghiên cứu phát triển và cạnh tranh một cách bình đẳng. Điều này làm cho môi trường kinh doanh bị hủy hoại. Thứ hai là phải có tư pháp độc lập, nghĩa là các thẩm phán có thể đưa ra những quyết định công bằng, trung thực và dựa trên pháp luật mà không bị can thiệp hoặc áp lực từ bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào, bởi vì không ai dám đầu tư kinh doanh ở một nước mà chính quyền có thể tùy tiện khám xét, bắt giữ và kết án một người chỉ vì họ không đồng ý với chính quyền.
Lý do tôi cho rằng ông Tô Lâm không phải là một nhà cải cách thực sự là bởi vì ông không có đầu óc cởi mở và cũng không đủ uy tín để có thể động viên đất nước thực hiện những thay đổi lớn. Ông nói về tiết kiệm và chống lãng phí nhưng bản thân ông lại ăn thịt bò dát vàng giữa lúc đồng bào cả nước đang thiếu thốn thực phẩm vì dịch covid. Ông nói về phát triển khoa học và hội nhập quốc tế nhưng lại cấm phát hành bài báo của The Economist. Ông nói về phân cấp, phân quyền nhưng lại thâu tóm mọi quyền hành và đưa những người thân cận vào các chức vụ quan trọng. Ông nói “phải dứt khoát bỏ tư duy không quản được thì cấm” nhưng vài ngày sau công an lại cấm ứng dụng nhắn tin Telegram. Ông còn nói về hoàn thiện thể chế và pháp luật, trong đó đặt mục tiêu Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ và công bằng, nhưng lại bắt giam những người bất đồng chính kiến, bao gồm hai thành viên của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là Trần Khắc Đức và Quách Gia Khang.
Vậy làm sao để Việt Nam thoát bẫy thu nhập trung bình và trở thành một nền kinh tế tri thức? Như tôi đã nói, chương trình cải cách của ông Tô Lâm sẽ không đi tới đâu và không thể đưa đất nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Chỉ vài tháng nữa thôi là sự thất bại sẽ trở thành một thực tế không thể chối cãi.
Theo tôi thì con đường duy nhất để chúng ta trở thành một nước có thu nhập cao chính là đi theo con đường mà Ba Lan đã đi, tức là từ bỏ chuyên chính vô sản để trở thành một nước dân chủ bởi vì chừng nào đất nước vẫn còn bị Đảng Cộng Sản chiếm làm của riêng thì chừng đó chúng ta chưa thể động viên mọi người Việt Nam cùng bắt tay nhau xây dựng và phát triển đất nước. Tiến trình dân chủ hóa sẽ bắt đầu bằng việc Đảng Cộng Sản bãi bỏ mọi hình thức kiểm duyệt báo chí, chấm dứt đàn áp đối lập và thả toàn bộ tù nhân lương tâm. Sau đó là tiến hành các cuộc đối thoại giữa Đảng Cộng Sản và các tổ chức dân chủ về việc tổ chức một cuộc bầu cử tự do, công bằng, và lương thiện trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc. Quá trình này đòi hỏi rất nhiều thiện chí và nỗ lực từ cả hai phía: những đảng viên cộng sản còn quan tâm đến đất nước và những người đối lập. Một khi cuộc bầu cử tự do đã được tổ chức thì kết quả của nó cũng không quan trọng lắm, dù đảng nào giành chiến thắng thì chế độ dân chủ cũng đã được thiết lập, cuộc vận động dân chủ đã thành công và người thắng lớn vẫn là dân tộc Việt Nam.
Các bạn nghĩ sao về chủ đề này? Vui lòng để lại ý kiến dưới phần bình luận.
👉 Theo dõi kênh tại đây