Dân chủ hóa đang có một triển vọng phản công và lấy lại thế chủ động trên mọi mặt trận vì những cuộc khủng hoảng dân chủ đã được nhận diện và có lời giải.
Bài viết này được viết vào thời điểm dân chủ thế giới có dấu hiệu đi xuống nếu xét theo những số liệu dân chủ trên toàn cầu: Nếu nói lạc quan thì ngày hôm nay thế giới của chúng ta vẫn là một thế giới mà các chế độ dân chủ chiếm áp đảo (2/3); tuy vậy thì hơn 1/3 (39.2%) dân số thế giới và 60 quốc gia, vùng lãnh thổ vẫn sống trong các chế độ độc tài (có nghĩa là đã tăng lên 8 so với năm 2014) (theo Economist Intelligence). Ngay cả những nước dân chủ ổn vững nhất thì phong trào dân túy cũng có dấu hiệu mạnh lên. Ví dụ như trong cuộc bầu cử nghị viện ở Đức vào năm 2025, đảng dân túy AfD đã nắm được 20% số phiếu phổ thông. Hoa Kỳ, vốn luôn là một đảm bảo của thế giới dân chủ, thì hiện nay đã trở thành một nền dân chủ khiếm khuyết (flawed democracy). Đáng lo ngại hơn, việc Donald Trump tái đắc cử đã làm suy yếu nền dân chủ Mỹ bằng cách đưa những cá nhân thiếu năng lực, tầm nhìn và lập trường dân chủ lên nắm quyền, áp dụng xu hướng cai trị bằng sắc lệnh (rule by decrees) và lạm dụng quyền hành pháp. Nghiêm trọng hơn, chính quyền Trump đã làm suy giảm uy tín và tinh thần dân chủ trong chính sách đối ngoại khi bỏ phiếu chống lại nghị quyết lên án Nga xâm lược tại Liên Hợp Quốc, đồng thời hoãn mọi khoản viện trợ cho Ukraine trong khi tìm cách dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Nga. Tại mặt trận châu Á, Hàn Quốc vốn là một đảm bảo của dân chủ cũng trải qua nhiều sóng gió; tại Trung Đông, Israel trước kia vẫn có một uy tín về dân chủ nhưng giờ đây bị nhìn như một vấn đề lớn.

Rõ ràng, trong thập kỷ vừa qua, nền dân chủ đã suy giảm nếu nhìn vào các số liệu. Tuy nhiên, sự xuống cấp của môi trường và thể chế dân chủ trong thời gian qua không có nghĩa là dân chủ sẽ không tiếp tục phát triển trong tương lai. Do đó, chúng ta cũng cần có những phân tích cụ thể để nhận diện cuộc khủng hoảng dân chủ hiện tại.
- Sự kết thúc của toàn cầu hóa không gắn liền với dân chủ hóa
Đầu tiên, chúng ta phải xét đến toàn cầu hóa xô bồ như một nguyên nhân khiến dân chủ triệt thoái trên thế giới. Toàn cầu hóa vốn dĩ là một xu hướng hợp tác tự nhiên, kêu gọi cởi mở và tăng cường trao đổi về con người và văn hóa. Nhưng dù sao đó cũng là một phong trào lớn. Nó cần một tổ chức hợp lý và đảm bảo tính bền vững, cũng như các nguyên tắc, để có thể hoạt động hiệu quả chứ không thể thực hiện một các xô bồ được. Thế giới phương Tây đã cổ xúy toàn cầu hóa theo hướng: chỉ cần các bạn có con người, tài nguyên, và một sự cởi mở với phương Tây, chúng tôi sẵn sàng giang hai tay chào đón các bạn. Sự đầu tư ồ ạt vào toàn cầu hóa đã khiến nhiều quốc gia đang phát triển, thay vì lựa chọn dân chủ hóa, hoặc quả quyết hơn với dân chủ khi đã có một mức độ dân chủ cơ bản, lại chọn quyết định triệt thoái trong dân chủ. Họ tin rằng sự giàu có và nguồn tiền mà phong trào toàn cầu hóa đem lại sẽ che lấp được mọi bệnh tật trong xã hội. Nếu nhìn xung quanh, chúng ta thấy bất bình đẳng tại Indonesia và Mã Lai trở lên trầm trọng hơn; đời sống tại Philippines có phần suy giảm, với một lớp người gần như không có khả năng thăng tiến trong xã hội; những bất ổn chính trị vẫn kéo dài tại Thái Lan. Thành thực mà nói đó là những nước lẽ ra đã phải dân chủ rất quả quyết nếu phong trào toàn cầu hóa được thiết kế một cách thận trọng hơn.
Một nước cần phải kể đến là đất nước Việt Nam của chúng ta. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã nhiều lần chỉ ra vấn đề về ngoại thương của Việt Nam, vốn chiếm trọng lượng tới 250% GDP, và 30% ngoại thương phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Điều đó sẽ dẫn đến những bất ổn, và thậm chí là sụp đổ kinh tế, trong một bối cảnh thế giới biến động. Sự cám dỗ của toàn cầu hóa đã khiến chế độ Cộng sản Việt Nam (CSVN) một mặt từ chối dân chủ hóa, mặt khác, thay vì tập trung phát triển một thị trường nội địa vững mạnh, cải thiện đời sống và mức lương cho người lao động cũng như bảo vệ môi trường, họ lại lựa chọn trở thành một quốc gia gia công và xuất khẩu với chi phí lao động thấp, đồng thời hy sinh các tiêu chuẩn về môi sinh. Tất nhiên, không thể hoàn toàn đổ lỗi cho toàn cầu hóa. Chúng ta cũng phải lên án sự thiếu sáng suốt của các cấp lãnh đạo chế độ. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng chính lợi ích từ toàn cầu hóa đã góp phần dẫn dắt chế độ Việt Nam vào một con đường phát triển sai lầm. Chỉ gần đây họ mới muộn màng thừa nhận rằng phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển con người, bảo vệ môi sinh và hướng tới một nền kinh tế bậc cao thay vì chỉ làm gia công giá rẻ. Tuy nhiên, họ hoàn toàn không đề cập đến giải pháp cụ thể để thực hiện điều đó.
Khi nói về phong trào toàn cầu hóa, chúng ta phải hiểu rằng đó là sự kết hợp của các nền kinh tế bậc cao ở phương Tây, bao gồm Hoa Kỳ và châu Âu, cùng với khu vực châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Nam Á và Đông Nam Á. Trong đó, hai quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Sự xô bồ của toàn cầu hóa chắc chắn bắt đầu từ quyết định hợp tác sâu sắc về kinh tế và thương mại với Trung Quốc của Hoa Kỳ, dù trước đó Trung Quốc đã gây ra thảm sát Thiên An Môn vào năm 1989, một tội ác nhân quyền khủng khiếp. Đó có lẽ là một tiền đề sai trái về đạo đức, và là một sự phản bội các giá trị dân chủ. Một tiền đề mà khi nhìn lại, chúng ta hiểu tại sao phong trào toàn cầu hóa xô bồ đem lại thất bại và đưa đến sự xuống cấp của dân chủ thế giới. Ngày hôm nay, chúng ta thấy tiến trình dân chủ hóa có vẻ đứng yên tại chỗ dù nó có mọi triển vọng phải tiến tới. Đây là hệ quả của hơn hai thập kỷ toàn cầu hóa bùng nổ trong lĩnh vực thương mại và kinh tế, nhưng lại thiếu đi những ưu tư đúng mức đối với dân chủ.
Một thực tế đáng mừng là phong trào toàn cầu hóa xô bồ đang dần chấm dứt. Dù toàn cầu hóa không biến mất hoàn toàn, sự tái tổ chức của nó chắc chắn sẽ mang lại một thế giới lành mạnh hơn. Điều này có nghĩa là, thay vì tin tưởng một cách mù quáng rằng chỉ cần để dòng vốn và thực tiễn kinh tế tự do vận hành thì sớm muộn gì cũng sẽ dẫn đến thay đổi chính trị và cải tổ thể chế, giờ đây, tiến trình cải tổ thể chế và thay đổi chính trị phải được đặt lên hàng đầu như một điều kiện tiên quyết để hội nhập vào trật tự toàn cầu hóa mới. Cũng cần nhấn mạnh rằng sẽ không có bất kỳ nỗ lực nào nhằm cô lập một quốc gia chỉ vì lý do chính trị cụ thể. Tuy nhiên, việc từ chối dân chủ hóa và cải thiện thể chế sẽ khiến chính quốc gia đó tự cô lập mình. Phong trào toàn cầu hóa hiện nay đang thúc đẩy các nước phát triển và giới tư bản thu hẹp chuỗi cung ứng về những khối kinh tế, đồng minh hoặc thị trường mà họ cảm thấy quen thuộc và tương đồng về văn hóa cũng như thể chế chính trị. Mặt khác, đại dịch Covid-19 và sự thất bại của dự án Vành đai và Con đường đã gây ra những tổn thất đáng kể cho tài chính thế giới. Do đó, các quyết định đầu tư ngày càng được định hướng bởi sự ổn định, và sự bảo đảm từ tinh thần đồng minh trở thành yếu tố ưu tiên hàng đầu.
Một điều hết sức nghịch lý của toàn cầu hóa là những người chiến thắng và thành công nhất lại tự tuyên bố mình là kẻ thua cuộc. Hoa Kỳ ngày hôm nay là quốc gia thu hút được nhiều tư bản và là nơi tập trung các siêu tập đoàn lớn nhất trên thế giới. Nhiều startup, sau một giai đoạn phát triển tại quê hương, đã chuyển sang Mỹ để mở rộng quy mô và tiếp cận một thị trường tiêu dùng lớn hơn, nơi có dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) luôn dẫn đầu thế giới. Các nhân tài và kỹ thuật viên giỏi nhất cũng đã lựa chọn di cư đến Hoa Kỳ. Chính họ là những người khởi xướng phong trào toàn cầu hóa ngày nay. Nhưng đến thời Trump, nước Mỹ lại đóng vai trò như một nạn nhân. Họ cho rằng sự hào phóng của mình đã bị thế giới “lạm dụng” (!?) Chính quyền Trump đã phát động cuộc chiến thương mại với thế giới, bao gồm cả Mexico và Canada – hai quốc gia láng giềng của Mỹ. Tuy nhiên, họ không nhận ra rằng một số lượng lớn những đối tượng bị ảnh hưởng chính là các doanh nghiệp Mỹ có nhà máy sản xuất đặt tại nước ngoài. Hoa Kỳ giống như một gã khổng lồ điên loạn đang dẫm lên chính dấu chân (footprints) của mình. Những hành động điên loạn trong thời điểm này sẽ dẫn đến một hệ quả nào đó. Có lẽ đó sự tăng tốc của quá trình kết thúc trật tự toàn cầu hóa cũ, một trật tự mà giờ đây có đủ lý do để kết thúc.
- Nền dân chủ tự đánh mất chính mình
Về mặt lý luận, thế giới ngày hôm nay vẫn là một thế giới mà nền dân chủ chiếm áp đảo, với dân chủ là một mô hình “ưu việt” nhất. Có một thời điểm trong đại dịch Covid, nhiều người cho rằng Trung Quốc, với một xã hội đề cao tinh thần tập thể và sự hy sinh, sẽ chống chọi với đại dịch Covid hiệu quả hơn một xã hội dân chủ với sự đề cao “cá nhân”. Tuy nhiên, chúng ta đã thấy đây là một lập luận sai lầm và chủ quan. Các nền dân chủ đã làm tốt hơn trong nỗ lực đảm bảo an sinh và liên đới xã hội trong điều kiện dịch Covid. Thể chế dân chủ vẫn đủ thẩm quyền để duy trì các trật tự và quy định phòng chống dịch tễ mà không vi phạm quyền con người. Hơn nữa, các quốc gia dân chủ còn đã góp phần điều chế ra vaccines và kết thúc đại dịch. Trong khi đó, Trung Quốc đã kết thúc đại dịch muộn hơn phương Tây, với những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và nhiều tổn thương trong xã hội; với sự nổi dậy của phong trào Giấy Trắng như một cọng rơm làm gãy lưng con lạc đà.
Nhưng chúng ta có thể thấy sự triệt thoái gần đây là một sự suy giảm về tinh thần dân chủ và sự thất bại trong những nỗ lực cải tổ thể chế dân chủ kịp thời tại chính các nền dân chủ lâu đời. Hay nói cách khác là dân chủ đã tự hủy hoại chính mình bằng sự vụng về (failing on its own terms), hơn là triệt thoái dưới sự áp lực của độc tài. Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình nhất trong sự vụng về đó. Bước ra khỏi chiến tranh lạnh, các lãnh đạo của Hoa Kỳ từ George W. Bush, Bill Clinton, Obama đều có một thái độ ngạo mạn và cho rằng sự toàn thắng đó là “điểm cuối của lịch sử”, và chủ nghĩa tự do phóng khoáng (liberalism/neoliberalism) là một lựa chọn duy nhất. Đó là một lập luận coi kinh tế chỉ là thị trường tài chính, và coi chính trị chỉ là kinh tế. Điều đó đã dẫn đến những thất bại của nền chính trị Hoa Kỳ trong những quyết tâm về phúc lợi xã hội và đảm bảo an sinh cho quần chúng, nhất là y tế và giáo dục. Trong một xã hội bất bình đẳng hơn với sự xuống cấp của tầng lớp trung lưu và sự nghèo đi của một nửa dân số thu nhập thấp (bottom 50%), tình trạng bấp bênh và thiếu liên đới xã hội đã khiến người dân tin rằng thể chế dân chủ đã không hoạt động vì quyền lợi cho họ. Do đó, họ không có nghĩa vụ phải bảo vệ một nền dân chủ không có thực chất, thậm chí còn phải đập phá nó. Chính tâm lý này đã dẫn đến việc Donald Trump đặc cử vào năm 2016 và đắc cử thêm một lần nữa vào năm 2024. Cũng cần nhấn mạnh là nước Mỹ tuy là nhà lãnh đạo của thế giới tự do nhưng nước Mỹ cũng chưa từng trải qua một thảm họa về độc tài, và không có những ký ức sống trong các chế độ độc tài toàn trị. Do đó, Hoa Kỳ đã bị ngã gục trước làn sóng của chủ nghĩa dân túy một cách chóng vánh. Ngày hôm nay, Mỹ là một cường quốc sở hữu nhiều tập đoàn lớn, nhưng chính quy mô này lại tạo ra sự cứng nhắc và khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước khó có thể cạnh tranh. Hơn nữa, quy mô quá lớn của các tập đoàn này khiến chúng trở nên “quá lớn để sụp đổ” (too big to fail), dẫn đến việc mỗi khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, chính quyền ưu tiên cứu trợ các tập đoàn này thay vì hỗ trợ những người dân đang gặp khó khăn. Sự linh động trong xã hội suy giảm, trong khi tình trạng bế tắc trong kiểm soát súng đạn làm bạo lực gia tăng, khiến Hoa Kỳ dần bộc lộ những dấu hiệu của một mô hình thất bại (failed state).
Nếu chúng ta tiếc nuối trước sự suy thoái của nền dân chủ Hoa Kỳ, thì cũng cần thừa nhận rằng đây là một quá trình tự suy yếu đầy cố ý và vụng về, chứ không phải kết quả của áp lực từ một ý thức hệ độc tài. Những công dân bình thường đã đóng thuế và tham gia bầu cử với lá phiếu hợp lệ, nhưng ý chí của họ không được phản ánh trong các chính sách của chính quyền hay đảm bảo cho họ được nâng đỡ. Trong khi đó, các tập đoàn tài phiệt – dù không có một lá phiếu nào trong hệ thống dân chủ – lại có thể sử dụng tiền bạc để tác động đến các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội, cũng như ảnh hưởng đến các chính sách và hệ thống thuế theo hướng có lợi cho họ. Phải thừa nhận rằng nền dân chủ Mỹ đã không còn lành mạnh trước khi rơi vào khủng hoảng, bởi một bộ phận chính giới Mỹ đã sẵn sàng chấp nhận lối vận hành phi dân chủ, bất chấp mọi cảnh báo và những trăn trở về đạo đức chính trị.
Nhưng sau Trump, tương lai nào đang chờ đợi Hoa Kỳ? Có lẽ cần thận trọng khi đưa ra dự đoán, nhưng sự sụp đổ của hình tượng Hoa Kỳ như một “hình mẫu” dân chủ có thể góp phần lành mạnh hóa quá trình dân chủ hóa và cải tổ thể chế tại nhiều quốc gia đang trên đà cởi mở. Hơn nữa, dù có suy yếu, Hoa Kỳ vẫn sẽ duy trì thể chế dân chủ, bởi thực tế cho thấy những bang giàu có và thành công nhất đều đã phản đối Trump và chủ nghĩa dân túy. Họ sẽ tiếp tục đóng vai trò bảo đảm nhất định để ngăn Hoa Kỳ rơi vào chủ nghĩa độc tài. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay là làm thế nào để triển khai nền dân chủ hiệu quả trên quy mô của một liên bang.
Các nước châu Âu có nhiều ưu tư về cải tổ thể chế, duy trì liên đới xã hội, và xây dựng một nền pháp trị lành mạnh, cùng những cố gắng xây dựng luật điều tiết kinh tế, thông tin, đầu tư, trí tuệ nhân tạo, môi trường và xã hội, vv. trước khi những xu hướng kinh tế mới bùng nổ tại châu Âu. Đó là một hướng đi đúng đắn hơn. Nhưng châu Âu không hoàn toàn vô can khi để cho dân chủ thế giới triệt thoái. Ví dụ như Đức đã từng rất cởi mở với Nga, thâm chí còn xây dựng hai đường ống dẫn khí gas (Nord Stream 1 và Nord Stream 2) dẫn dầu từ Nga về Đức, đặt Đức vào thế lệ thuộc Nga về vấn đề năng lượng. Nhưng năng lượng là một vấn đề an ninh quốc gia vì mọi cuộc khủng hoảng về năng lượng đều có tiềm năng trở thành khủng hoảng chính trị. Tại sao họ có thể bất chấp việc Nga là một nước độc tài và là một nước có tư tưởng đế quốc để Đức lệ thuộc vào Nga trên một vấn đề an ninh như vậy? Nhất là trong hoàn cảnh Nga đã là một lực lượng tài trợ cho Assad tại Syria và lực lượng thủ cựu tại Iran; Nga đã gây chiến với nhiều quốc gia lân bang trong đó có Georgia và Ukraine; và châu Âu gần như đã phớt lờ khi Nga xâm chiếm bán đảo Crimea vào năm 2014.
Trong bối cảnh mà các quốc gia độc tài vẫn chiếm khoảng 1/3, và có lẽ 1/3 khác là những nước có nền dân chủ nhưng chưa thực sự quả quyết, thì các quốc gia dân chủ đã đạt đến độ chín muồi và ổn vững cũng chỉ chiếm khoảng 1/3 trên thế giới. Do đó, mối quan tâm về việc đặt dân chủ vào thế chủ động và tiếp tục mở rộng vẫn sẽ là một vấn đề được đặt ra đối với thế giới. Khả năng hai chế độ độc tài lớn nhất, Nga và Trung Quốc, sử dụng áp lực để ép buộc và cản trở tiến trình dân chủ hóa của các nước láng giềng ngày càng giảm dần. Điều này là do cả hai quốc gia này đều đang đối mặt với quá trình suy sụp: Nga gần như đã sa lầy và có nguy cơ sụp đổ bất kể kết quả của cuộc chiến tại Ukraina ra sao, trong khi Trung Quốc cũng đang chật vật trước nguy cơ khủng hoảng kinh tế và suy thoái về tư tưởng chính trị. Tuy nhiên, mối quan tâm về quốc phòng và an ninh để bảo vệ thế giới dân chủ vẫn là một vấn đề cấp thiết, vì đó là nhu cầu thực tế nhằm kiểm soát những hành động liều lĩnh từ các lực lượng độc tài, đồng thời đảm bảo rằng nếu xung đột nổ ra, chúng sẽ được giải quyết nhanh chóng nhờ sự hiện diện của quân đội khối dân chủ và lực lượng gìn giữ hòa bình. Mặc dù những lực lượng này không nhằm mục đích gây chiến hay can thiệp để lật đổ các chế độ độc tài, nhưng nền dân chủ cũng không thể tỏ ra yếu đuối trước sức ép quân sự từ các quốc gia độc tài. Các nước dân chủ phải duy trì thế phòng thủ vững chắc về quân sự và quốc phòng tại các tuyến phòng thủ quan trọng như Đông Âu, Biển Đông và Thái Bình Dương, đồng thời cần có lực lượng bình ổn tại châu Phi và Trung Đông. Nhờ đó, thế giới có thể duy trì một nền hòa bình tương đối, tạo điều kiện để các tư tưởng dân chủ và phong trào bất bạo động tiếp tục phát triển theo hướng chủ động và tiến công.
Khi xâm lược Ukraine, Putin cũng nhìn thấy sự yếu đuối của chính quyền Mỹ và Mỹ không còn là một đảm bảo về an ninh cho khối dân chủ. Trước đó cũng không ai ngờ rằng Mỹ sẽ rút quân khỏi Afghanistan để cho Taliban tùy tiện kiểm soát và triệt tiêu chính quyền dân chủ tại đây. Thế giới cũng gần như bất lực trước sự thiếu kiềm chế của Do Thái và Thổ Nhĩ Kỳ. Trên mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, chúng ta cũng thấy sự hung bạo và tùy tiện của chính quyền quân đội Myanmar khi đảo chính lật đổ một chính quyền dân sự được bầu thông qua thể thức dân chủ. Trong bối cảnh thế giới vẫn còn chia thành ba phần như đã đề cập, việc duy trì một lực lượng quân sự nhằm đảm bảo an ninh cho thế giới dân chủ và bảo vệ các thành trì dân chủ khỏi bị đe dọa là điều vô cùng cần thiết.
Tuy nhiên, châu Âu đã phạm sai lầm khi quá phụ thuộc vào Mỹ trong vấn đề an ninh của chính mình. Dù đã có những dấu hiệu rõ ràng từ năm 2014, dưới thời Obama, rằng Hoa Kỳ sẽ không còn là một sự đảm bảo vững chắc và thậm chí có thể trở thành yếu tố bất ổn đối với an ninh thế giới, châu Âu vẫn không có hành động kịp thời. Nhưng tại sao lại có một sai lầm nghiêm trọng như vậy? Có lẽ vì các chính trị gia mẫu mực, những người được đào tạo theo khuôn khổ của ngành quản lý tài chính và tư duy thực tiễn, đã không đưa ra được những quyết định cấp bách cần thiết để đảm bảo tương lai cho nền dân chủ. Thay vào đó, họ hành động như những nhà quản lý rủi ro, chỉ quan tâm đến các lợi ích ngắn hạn và tính toán lợi thế chính trị trước mắt thay vì thực hiện các biện pháp cấp tốc và cần thiết.
- Dân chủ sẽ phản công?
Bất chấp cuộc khủng hoảng hiện tại, chúng ta không nên bi quan cho rằng nền dân chủ sẽ tiếp tục suy thoái. Ngược lại, chúng ta nên lạc quan vì ngày mà dân chủ lan rộng trên thế giới và tại Việt Nam sẽ không còn xa. Nếu vào năm 2014, thế giới dân chủ và châu Âu đã nhìn Ukraine với sự nghi ngờ và cho rằng họ không thực sự thành thực với dân chủ, thì hôm nay không ai còn nghi ngờ rằng Ukraine là một đồng minh dân chủ và họ đang chiến đấu để bảo vệ tuyến đầu của nền dân chủ tại mặt trận châu Âu. Việc tăng cường quốc phòng (ít nhất là đạt 3,5% và rồi 5%) và các khoản cứu trợ khẩn cấp cho Ukraine trong tình cảnh không có sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ là vô cùng khó khăn, nhưng điều đó chẳng là gì so với sự giàu có của châu Âu và không thấm tháp gì so với hậu quả nếu Ukraine thất thủ. Trong ngày hôm nay (3/4/2025), Thủ tướng Ukraine Shmyhal cũng khẳng định rằng họ có đủ phương tiện để duy trì phòng tuyến của mình, mặc dù điều này có thể gặp phải những khó khăn. Chúng ta cũng không thể không khâm phục Ukraine vì sự bền bỉ và dẻo dai của họ trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quên rằng họ đã chiến đấu âm thầm trong suốt một thập kỷ để tiến lên trên con đường dân chủ, thể hiện quyết tâm dân chủ hóa và xích lại gần châu Âu, trong khi hoàn cảnh của họ ít được ghi nhận. Hơn nữa, vào thời điểm đó, châu Âu vẫn tin tưởng và hợp tác với Nga, một quốc gia thực tế có xu hướng can thiệp và tiêu diệt dân chủ tại Ukraine. Ukraine đã chiến đấu vì dân chủ trong âm thầm và trong những điều kiện vô cùng ngặt nghèo.
Tại Đông Âu nhìn chung, vẫn còn những lực lượng không mấy thân thiện với dân chủ như Hungary hay Romania. Nhưng Ba Lan và các nước Baltic đã nổi lên như những đảm bảo mới cho dân chủ. Chúng ta cũng chứng kiến lực lượng dân chủ đang giành giật lại tư thế phản công của mình tại Georgia và Slovakia, với các cuộc biểu tình lên tới hàng trăm, hàng ngàn hay hàng triệu người, đưa mặt trận này vào một không khí hết sức sôi động.
Tôi đã nhiều lần phân tích về triển vọng dân chủ tại mặt trận châu Á – Thái Bình Dương. Nếu ngoại trừ Trung Quốc thì các nước độc tài toàn trị cũng chỉ là một thiểu số nhỏ trong khu vực này. Đồng thời, sự đặt lại của phong trào toàn cầu hóa ở trên cũng sẽ khiến các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương phải dân chủ hóa quả quyết hơn và phải cải thiện thể chế bằng chính nội lực của mình nếu không muốn tự cô lập và chìm trong viễn cảnh bất ổn.
Có lẽ, tôi sẽ không cần phải nói nhiều đối với đảng Cộng sản Việt Nam, vì chính chế độ Cộng sản Việt Nam cũng thấy rõ những mối nguy về bất ổn, sụp đổ xã hội, khủng hoảng về kinh tế đan xen với khủng hoảng chính trị tại Việt Nam. Ông Tô Lâm và các nhà lãnh đạo đảng cũng liên tục kêu gọi đổi mới, dù đổi mới bằng cách nào, với những nội dung và nguồn lực nào, thì họ không biết hoặc chỉ trình bày một cách hời hợt để che đậy sự bất lực của chế độ. Chúng ta có tiềm năng dân chủ vì chúng ta được đặt trong một khu vực bắt buộc phải có dân chủ và một vành đai dân chủ châu Á – Thái Bình Dương nối từ Bắc Mỹ, đại bộ phận của Nam Mỹ, Nam Phi, Ấn Độ, Úc và các nước Đông Nam Á đại lục và Đông Nam Á Hải Đảo; tới tận khối dân chủ Đông Á bao gồm Đài Loan, Hàn Quốc, và Nhật Bản. Đây là một vành đai vô cùng quan trọng vì nó đảm bảo tự do hàng hải, tự do thương mại, và đặt khối dân chủ vào thế kiểm soát hai đại dương lớn. Chúng ta nói về việc châu Âu tái vũ trang, nhưng cũng không thể loại trừ Nhật Bản sẽ sớm tái vũ trang. Và một liên minh về an ninh dựa trên sự kết hợp của Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Úc sẽ manh nha hình thành. Mặt khác, những nước chưa có dân chủ hoặc dân chủ bị triệt thoái trong vành đai dân chủ này cũng đứng trước những hạn kỳ dân chủ mới. Bangladesh sau tất cả buộc phải trở lại tiến trình dân chủ hóa, Thái Lan tiếp tục phải dân chủ hóa mạnh mẽ hơn nữa, và liệu chính quyền quân phiệt tại Myanmar có thể khất lần hạn kỳ bầu cử bắt buộc phải đến kể từ sau cuộc đảo chính?
Triển vọng dân chủ và những làn sóng dân chủ hóa tại các quốc gia đang cởi mở vẫn đang nổ ra, và gia tốc. Tuy nhiên, nó đã không có một sự hậu thuẫn đúng nghĩa từ các nước dân chủ vì chính họ cũng chìm trong cuộc khủng hoảng bởi sự vụng về và lúng túng sau một giai đoạn mải mê với chủ nghĩa phóng khoáng và thái độ tự mãn của mình. Phương Tây đã thực thi toàn cầu hóa một cách sai lầm, gây ra nhiều đổ vỡ về thể chế trong các chính quyền ở nhiều quốc gia. Họ đã lơ là về an ninh, dẫn đến hậu quả là các nhà nước độc tài như Nga và Trung Quốc thoải mái sử dụng vũ lực hoặc quyền lực mềm để chèn ép và cản trở quá trình dân chủ hóa ở các quốc gia nhỏ. Hơn nữa, họ còn phụ thuộc vào các chế độ độc tài có nguy cơ đe dọa an ninh và lệ thuộc vào quốc phòng của Hoa Kỳ, mặc dù biết rằng Mỹ chắc chắn sẽ triệt thoái khỏi vai trò lãnh đạo.
Tuy nhiên, những sai lầm đó đã được nhận diện, và thế giới dân chủ đang chạy đua với thời gian để khắc phục chúng. Thời điểm các quốc gia dân chủ tổ chức một phiên họp về an ninh và Ukraine, kết thúc bằng những cam kết viện trợ khẩn cấp cho Ukraine và gia tăng quốc phòng để thay thế vai trò cung cấp an ninh cho thế giới dân chủ, sẽ là một bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự chuyển sang thế phản công của dân chủ. Dân chủ sẽ tiến lên, và tại những vùng đất không còn chiến tranh (ngoại trừ Myanmar), như Đông Nam Á, hay rộng hơn là khu vực châu Á – Thái Bình Dương, quá trình dân chủ hóa có lẽ sẽ không gặp phải nhiều trở ngại.
Dân chủ hóa đang có một triển vọng phản công và lấy lại thế chủ động trên mọi mặt trận vì những cuộc khủng hoảng dân chủ đã được nhận diện và có lời giải.
- Chế độ Cộng Sản Việt Nam có nên cố thủ?
Vấn đề của Việt Nam là sự tối tăm của lực lượng độc tài toàn trị dường như đã ngăn cản đất nước tiến tới một cuộc chuyển hóa cần thiết. Tuy nhiên, nếu Việt Nam tiếp tục từ chối dân chủ hóa và không nằm trong vành đai dân chủ, chúng ta sẽ không còn một tương lai bền vững, cũng như không có đảm bảo về an ninh hay hội nhập. Trong bối cảnh đó, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã trở thành một lực lượng tiên phong với những giải pháp và khả năng lãnh đạo các ý tưởng lớn. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã đấu tranh và góp phần xây dựng nền tảng cho cuộc vận động dân chủ hóa ở Việt Nam, đặc biệt trong những thời điểm mà tinh thần dân chủ, cả trên thế giới và trong nước, yếu đuối nhất. Ngày nay, những lập trường quan trọng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, như hòa giải dân tộc, dân chủ đa nguyên, và chiến lược đấu tranh bất bạo động; những chính sách kinh tế nhấn mạnh sự liên đới, môi trường và xã hội, cùng với một Hiến pháp tôn trọng nhân quyền, một nhà nước liên bang tản quyền, một chính quyền trung ương nhẹ nhàng,… đã trở thành những lựa chọn của tương lai. Khi chế độ Cộng sản Việt Nam càng rơi vào bế tắc, những lập trường của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên càng chứng tỏ mình là những lập trường duy nhất có sức nặng và tầm vóc để mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc. Hơn bao giờ hết, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã trở thành một đảm bảo lớn và gần như duy nhất của Việt Nam trên con đường dân chủ hóa.
Một câu hỏi đặt ra là liệu chế độ Cộng sản Việt Nam có bất chấp lý lẽ và tiếp tục chống cự không? Có một sự kiện ít được nhắc đến ở khu vực Baltic trong giai đoạn Liên Xô sụp đổ, dẫn tới dân chủ hóa, được gọi là Baltic Way: 2 triệu người đã nắm tay nhau, tạo thành một vòng tay lớn kéo dài 690 km qua ba quốc gia Estonia, Latvia và Lithuania (chiếm ¼ dân số của ba nước này khi đó là 8 triệu người). Ngày nay, ba quốc gia Baltic có một tương lai đảm bảo: nền kinh tế thông minh và hiện đại, thu nhập cao và một nền dân chủ ổn định, mặc dù nằm ngay sát đế quốc Nga. Lý do lớn nhất cho sự thành công này chính là câu chuyện dân chủ hóa của họ xuất phát từ một sự kiện đầy tính hòa giải và liên đới. Đó cũng là một tinh thần mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên coi là sức mạnh của dân chủ, và đang nỗ lực khơi dậy trong lòng mỗi người Việt Nam. Vậy lý do gì khiến chế độ Cộng sản Việt Nam tiếp tục chống cự, lựa chọn những giải pháp tiêu diệt và thanh toán lẫn nhau để “tự chuyển hóa,” dẫn đến một con đường không lối thoát, hoặc để đất nước chìm trong bất ổn và bạo lực, trong khi họ hoàn toàn có một sự bảo đảm từ Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên? Trong cuộc vận động dân chủ hóa này, chúng ta đã phải chấp nhận nó diễn ra khá lâu so với kỳ vọng của nhiều người, vì đây là một cuộc vận động nhằm khơi dậy tinh thần dân chủ và lòng yêu nước trong mỗi người Việt Nam, trong đó không ít là các đảng viên cộng sản. Tuy nhiên, chế độ không nên hiểu rằng khoảng thời gian kéo dài như hiện nay là bằng chứng cho thấy chế độ có thể tồn tại hoặc kháng cự trước áp lực dân chủ hóa. Thực tế, đó chỉ là khoảng thời gian để họ thoát ra khỏi sự u mê, nhận thức được tình trạng nạn nhân của mình, và từ đó chủ động trở thành những tác nhân của quá trình dân chủ hóa.
Chu Tuấn Anh
(04/03/2025)