Tôi viết bài viết này như một lời kết cho loạt bài Giai đoạn chuyển tiếp và Trật tự thế giới mới bao gồm các bài viết:
1. Dân chủ hóa vì chúng ta chỉ có một quốc gia và một tương lai chung
2. Mô thức nào cho Việt Nam khi nền dân chủ Hoa Kỳ chỉ còn là một ốc đảo và những bức tường?
3. Mong người Cộng Sản hãy đập bỏ bức tường giữa chúng ta
4. Một bàn tay vô hình mới khi mô thức Hoa Kỳ và chủ nghĩa phóng khoáng sụp đổ?
5. Một giai đoạn chuyển tiếp đầy biến động khi mô thức Hoa Kỳ và trật tự toàn cầu hóa cáo chung
6. Những gì cần phải nói với nhau trong một giai đoạn chuyển tiếp đầy biến động
7. CHÚNG TA KHÔNG CHẤP NHẬN MỘT MỨC ĐỘ DÂN CHỦ TỐI THIỂU TRONG MỘT CUỘC ĐUA CẦN MỘT CỐ GẮNG TỐI ĐA
Chúng ta có quyền lạc quan
Giai đoạn chuyển tiếp được bàn ở đây là một giai đoạn hỗn loạn kéo dài vì sự trống vắng của một quốc gia hoặc một tập hợp các quốc gia đóng vai trò lãnh đạo và bình ổn thế giới sau khi Hoa Kỳ triệt thoái. Đó sẽ là một giai đoạn khá dài trước khi chúng ta tiến tới một trật tự thế giới mới- một chút hỗn loạn ở giai đoạn đầu và một cuộc cạnh tranh về mô hình tăng trưởng gay gắt ở giai đoạn sau. Tuy vậy, một giai đoạn chuyển tiếp kéo dài và hỗn loạn không có nghĩa là những chế độ độc tài có thêm thời gian vay mượn. Đây chỉ là một giai đoạn để nhận diện và đào thải mọi hình thức độc tài trong một làn sóng dân chủ thứ tư đang gia tốc.
Đầu tiên, chúng ta đã bàn tới sự xét lại trong tổ chức thương mại của thế giới đã bắt đầu ngay từ những năm 2020 với sự gia tăng của các chính sách công nghiệp và xu hướng bảo hộ thương mại chọn lọc. Đó là một phản ứng tự nhiên của nhiều quốc gia để bảo vệ một cách chọn lọc kinh tế sản xuất của họ khỏi xu hướng toàn cầu hóa xô bồ đã gây ra những thiệt hại và đổ vỡ dẫn đến những bất mãn trong xã hội. Đó có thể là một nhu cầu chính đáng, nhưng các chính sách công nghiệp (industrial policies) cần phải được quản lý để trở nên minh bạch, không gây phương hại cho thương mại tự do- và điều đó dẫn đến một nhu cầu cải tổ đáng kể trong tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Nhưng thế giới đã không kịp có một cuộc cải cách đáng kể nào trong tổ chức thương mại WTO trước khi Trump đắc cử và đưa thế giới vào một sự hoảng loạn do cuộc thương chiến và cơn điên của nước Mỹ do Donald Trump gây ra. Cuộc thương chiến đã đặt thế giới vào nỗi lo suy thoái trực tiếp khi chính WTO cho rằng thế giới có thể suy thoái 7% GDP toàn cầu trong nhiều năm, nhưng rồi người ta cũng thở phào vì thế giới đã tránh được một cuộc suy thoái. Theo báo cáo Triển vọng kinh tế 2025 của IMF thì kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 2.8% trong năm nay (dù chậm hơn mức 3.3% vào năm ngoái, sự bi quan cho rằng kinh tế thế giới sẽ ở mức -2% đã không phải là hiện thực). Đó chắc chắn là một tín hiệu để lạc quan khi cho rằng xu hướng tái sắp xếp lại trật tự thương mại tự do thế giới, dù Hoa Kỳ sẽ tham gia hay không, áp đảo xu hướng cô lập, bảo hộ thương mại, và một mức tăng trưởng dù chậm lại sẽ là một bàn đạp để thế giới thoát khỏi tình trạng hỗn loạn hiện nay.
Chúng ta sẽ lạc quan hơn khi cạnh tranh chắc chắn sẽ ngày càng hay gắt, nhưng vấn đề kết hợp, liên minh sẽ ngày càng đặt ra vì những vấn đề trên thế giới sẽ ngày càng phức tạp trong đó có hợp tác về Biến đổi khí hậu. Mặt khác, sẽ không có sự xét lại về phân chia vai trò và thế mạnh giữa các quốc gia để có được những mặt hàng giá rẻ nhất, được sản xuất dễ dàng nhất thay vì tập trung vai trò sản xuất mọi mặt hàng vào một số ít quốc gia. Và xu hướng hợp tác vẫn mạnh lên (không xung đột trực tiếp với sự cạnh tranh) và đưa vấn đề hội nhập trở thành việc chấp nhận những nguyên tắc và giá trị chung- trong đó có các giá trị nhân quyền phổ cập.

Thế giới vẫn sẽ xét lại
Nhưng dù ở trường hợp nào thì những sự xét lại vẫn sẽ không thay đổi, vì xu hướng sắp xếp lại trật tự thương mại chỉ là một nội dung mà Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đã đặt ra: Làn sóng dân chủ thứ tư sẽ đánh đổ các chế độ cởi mở về kinh tế nhưng độc tài về mặt chính trị. Đầu tiên, trước đó thế giới thương mại tự do đã duy trì một cơ chế là các quốc gia trung chuyển (connector country) với điển hình như Mexico, Morocco, Việt Nam (điển hình là Việt Nam), trong nhiều trường hợp hiểu có thể hiểu là những quốc gia không đứng hẳn về phía phương Tây, nhưng cũng không đứng hẳn về phía Trung Quốc và đóng vai trò như những trạm trung chuyển xuất nhập khẩu giữa hai bên. Cơ chế này không có gì là ưu việt hay nổi trội ngoài sự thiếu hiệu xuất, tạo thêm cồng kềnh và rủi ro cho thương mại tự do. Dù thế nó vẫn được duy trì để tránh một thế đối địch trực tiếp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc- dường như hai cường quốc lãnh đạo thế giới và cường quốc sản xuất cũng ngầm chấp nhận khi sử dụng những trạm trung chuyển này. Những nhà lãnh đạo Việt Nam như ông Nguyễn Phú Trọng (khi còn sống) và những tùy tùng của ông ta huênh hoang quảng bá ngoại giao cây tre như một chân lý của ngoại giao. Ngày hôm nay họ huênh hoang bao nhiêu thì càng bế tắc bấy nhiêu vì cơ chế này sẽ chấm dứt như một xu hướng cần thiết để đơn giản hóa chuỗi cung ứng và giảm thiểu rủi ro trong thương mại. Kết quả đàm phán thuế quan vẫn treo lơ lửng trên đầu chế độ Cộng Sản Việt Nam và chúng ta không rõ kết quả đàm phán nhưng chắc chắn vai trò trung chuyển đó buộc phải chấm dứt. Một chế độ duy trì sự cởi mở về kinh tế nhưng độc tài về mặt chính trị sẽ đi đến hồi cáo chung vì địa chính trị và sinh hoạt toàn cầu hóa đã thay đổi.
Ông Nguyễn Phú Trọng và mô hình kinh tế dựa trên xuất khẩu
Một bài toán kinh tế vĩ mô khác là con đường làm giàu thông qua xuất khẩu đã phá sản. Lý giải một cách đơn giản, trong một nền kinh tế xuất khẩu, giả sử nếu trình độ sản xuất và những điều kiện ngày càng đồng đều và cạnh tranh giữa các quốc gia; để tăng tính cạnh tranh thì những người làm chính sách sẽ có hai lựa chọn: (1) giữ mức lương thật rẻ để các doanh nghiệp sản xuất sẵn sàng đầu tư tuyển dụng thêm lao động để gia tăng quy mô sản xuất, (2) giảm giá trị đồng tiền có giá trị xuống thấp hơn nữa so với đồng tiền của nước nhập khẩu để bên nhập khẩu mua hàng nhiều hơn. Những công cụ kinh tế-tài chính này tuy tăng trưởng tính cạnh tranh, sản lượng kinh tế nhưng trong dài hạn sẽ đẩy những bất mãn của xã hội lên cao vì lạm phát và mực lương thấp. Dưới thời ông Trọng, họ đã tự hào về sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực tư nhân vì đầu tư nước ngoài và kinh tế xuất khẩu để rồi đất nước chúng ta sống trong 10 năm bấp bênh (2015-2025) với một giai đoạn đại dịch xảy ra vào năm 2019 đánh dấu một sự đổ vỡ vô cùng lớn về kinh tế, chất liệu nhân xã của đất nước.
Thực ra, ông Nguyễn Gia Kiểng, thường trực Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cũng nhiều lần cảnh báo về lệ thuộc xuất nhập khẩu (tức ngoại thương) vượt quá 50% GDP sẽ đặt kinh tế đất nước trong một tình trạng rủi ro vì nền kinh tế không còn kiểm soát và chống chịu được những rủi ro từ sự đứt gãy về thương mại bên ngoài (một sự phụ thuộc đến hơn 200% sẽ chỉ là một mầm mống của thảm họa). Nhưng sự hiện diện của một người đã kiệt quệ về thể xác lẫn trí tuệ đã không cho phép đất nước có một sự xét lại trên bất cứ một vấn đề nào dù là nhỏ nhất. Sự kiệt quệ của ông Trọng như một sợi xích trói cột đất nước với chủ nghĩa cộng sản.

Ông Tô Lâm và một con đường hoang dại
Chắc chắn rằng khi nói về bẫy thu nhập trung bình (thấp) và nguy cơ tụt hậu (vĩnh viễn) nếu không tìm ra con đường mới cho đất nước, ông Tô Lâm ý thức được tình trạng mà ông Nguyễn Phú Trọng để lại cho mình: tuy kinh tế tăng trưởng trên những trang giấy, nhưng chất lượng sống không hề tăng, nhà ở ngày càng khó tiếp cận và đắt đỏ với thế hệ trẻ và tầng lớp lao động di cư, ngay cả giá cho thuê nhà cũng tăng gấp 1.5 lần so với một vài năm trước. Dù vậy, ông Tô Lâm đã không làm được gì ngoài làm trầm trọng hóa thêm vấn đề: Người dân sẽ không quên một tình trạng hỗn loạn dù ngắn hạn ông Tô Lâm đã tạo ra với nghị định 168 đưa mức phạt hành chính tăng cao gấp nhiều lần, cuộc cách mạng tinh giản bộ máy hành chính- sáp nhập địa phương bị nhận diện là những cuộc thay máu, đánh chiếm bộ máy từ trung ương đến địa phương một cách thô bạo để “công an hóa”, và “Hưng Yên hóa” đất nước Việt Nam, và quy định ngặt nghèo về thuế dành cho hộ gia đình, tiểu thương đã dẫn đến làn sóng đóng cửa, dừng kinh doanh.
Với một đầu óc của người xuất thân từ ngành công an và ngón nghề đàn áp, ông Tô Lâm không hiểu rằng thái độ đúng duy nhất của một người lãnh đạo cộng sản ở giai đoạn đóng cửa tắt đèn chỉ có thể là tỏ ra bao dùng, hiền lành, và dần chấp nhận tham gia vào tiến trình dân chủ hóa. Ông Tô Lâm đã khiến chế độ trở nên bạo ngược hơn: từ chỗ là một tập thể đảng trị chuyển dần về một bộ máy công an trị, với quyền lực ngành càng tập trung vào ông Tô Lâm và thiểu số một nhóm người Hưng Yên. Điều đó sẽ chỉ khiến cho chế độ Cộng Sản Việt Nam tan rã nhanh hơn mà thôi. Điều nguy hiểm là sự dung túng bạo quyền và lối hành xử độc đoán của ông Tô Lâm đã khiến viễn cảnh sự sụp đổ chế độ trong bạo lực lớn hơn đáng kể, và chắc chắn đó là một tai hại mà ông Tô Lâm và lực lượng an ninh chế độ không hề ý thức được khi nhiều người an ninh nói với tôi là họ phải đàn áp để bảo vệ chế độ và thứ pháp luật do chế độ sinh ra.
Ông Tô Lâm có phải là một nhà cải tổ?
- Phát triển kinh tế tư nhân
Tôi chưa bao giờ coi ông Tô Lâm như một nhà cải tổ, vì một nhà cải tổ trong một chế độ độc tài phải làm trước hết là bãi bỏ mọi sự đàn áp và tàn bạo, điều đã thực sự gia tăng với sự cầm quyền của ông Tô Lâm. Thực tế, “khuôn mặt cải tổ” của ông Tô Lâm chỉ là sự tưởng tượng của những người mang tâm lý kỳ vọng cùng một sức ép của thời đại. Chúng ta cũng sẽ phải bàn đến nghị định 68 về Phát triển kinh tế tư nhân, một nội dung trọng tâm và được quan tâm nhiều hơn cả.
Dưới thời ông Trọng và một giai đoạn của trật tự toàn cầu hóa mà Việt Nam đóng vai trò là một trạm trung chuyển (connector country), vốn đầu tư FDI đã rất sôi động và khiến cho đầu tư tư nhân và lĩnh vực tư tăng nhanh. Nhưng sự gia tăng đó cũng không giấu mãi được một sự kiệt quệ đã kéo dài của tư nhân trong nước vì sự toàn trị, chính sách tham nhũng và những thứ luật pháp hà khắc chế độ đã đặt ra để thâu tóm mọi phương tiện kinh tế vào tay bè đảng của họ, và đàn áp những người không có quan hệ với chế độ. Sau một thập kỷ dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng, chúng ta chẳng có gì hơn ngoài một nền kinh tế thống trị bởi các doanh nghiệp FDI và những đối tác nước ngoài của họ thống trị chuỗi cung ứng của đất nước, và một thiểu số các doanh nghiệp tư bản đỏ bè đảng của chế độ (crony capitalism) đại diện cho xu hướng tích trữ đầu cơ. Đến năm 2023, thương mại có dấu hiệu sụp đổ và đầu tư FDI không tăng thì chính phủ ông Phạm Minh Chính đã chỉ đối phó bằng cách bơm tiền đầu tư công ồ ạt- một hành vi tai hại và vô trách nhiệm rút cạn ngân sách Trung Ương và địa phương, và cũng đã chỉ giúp họ đứng vững trong một thời gian ngắn để mở ra một giai đoạn bất ổn kéo dài. Đảng cộng sản sau năm 2023 đã chỉ đẩy đất nước đi vào một giai đoạn hoang dại sau một thời kỳ kiên quyết không xét lại dù là một vấn đề nhỏ nhất.
Ông Tô Lâm không phải là một người có tâm hồn nền không thể hiểu được rằng việc chuyển sang nền kinh tế tư nhân trước hết là một giai đoạn cởi trói dân tộc khỏi sự đàn áp, ý thức hệ độc tài để đi tìm lại tiếng nói cho những con người Việt Nam, những tiểu thương và những người tư bản nhỏ không có cơ hội vươn lên, hay nói giản dị là dân chủ hóa để cởi mở về mặt chính trị.
Trong đó, khi nền kinh tế dựa trên xuất khẩu không còn là một đảm bảo và phải đánh đổi với việc duy trì lạm phát ở mức cao và lương thấp để cạnh tranh thì xu hướng phát triển (hay đặt một trọng lượng lớn hơn cho) thị trường nội địa (một lập trường Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ hai đã trình bày) là một xu hướng bắt buộc để phát triển kinh tế thông qua sức mua nội địa. Thị trường nội địa giúp tăng trưởng đầu tư nội địa và thúc đẩy mức lương của người lao động, đồng thời cũng tạo một sự đảm bảo cho nền kinh tế và là một thị trường thử nghiệm cho xuất khẩu khiến chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao và đạt những tiêu chuẩn cần thiết để xuất khẩu. Đó là về mặt lý luận, nhưng thực tế Trung Quốc cũng nhận ra điều này nên họ đã bơm tín dụng vào nền kinh tế để rồi chỉ nhận lấy những kết quả không đáng mong muốn: ngành bán lẻ vẫn trì trệ và sản xuất không sôi động trở lại. Lý do là vì trong các chế độ độc tài, thiếu những điều kiện an sinh-xã hội căn bản, tâm lý của quần chúng là dự phòng cho những trường hợp xấu nhất. Khối quần chúng vừa là khách hàng, và cũng là những cử tri, những tác nhân chính trị trong một nền kinh tế-chính trị: sức mua (và đầu tư tư nhân nội địa) của khối quần chúng phần lớn phụ thuộc vào những cố gắng không ngừng cởi mở về quyền chính trị- dân sự, và kinh tế- chính trị và việc có được một chính quyền lành mạnh với những cố gắng ổn định vĩ mô (một thể chế lành mạnh, ổn định về ngân sách-lạm phát, những cố gắng loại bỏ những hành vi thiếu lương thiện trong sinh hoạt kinh tế, và duy trì trật tự xã hội. Chắc chắn sự cướp bóc, và tận thu của một bộ máy công an trị sẽ chỉ triệt tiêu những cố gắng để cởi mở và động viên đất nước trong giai đoạn hiện tại.
- Phát triển khoa học kỹ thuật và hội nhập?
Một trong những cột trụ của những “cải cách” ông Tô Lâm đưa ra là Khoa học Công Nghệ, và Hội nhập (nghị quyết 57). Nhưng ông Tô Lâm cũng không ý thức được rằng vấn đề Khoa học Công nghệ đòi hỏi sự đổi mới sáng tạo và là động lực chính để đi lên một nền kinh tế dịch vụ có phẩm lượng là một vấn đề chủ yếu về tâm lý và văn hóa. Trong bài viết Phát Triển Khoa Học – Kỹ Thuật Cần Một Tinh Thần Và Một Thể Chế Dân Chủ, tôi cũng trình bày rõ sự sụt giảm về tinh thần dân chủ của Hoa Kỳ có thể ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo về Khoa học Kỹ Thuật của Hoa Kỳ ngay cả khi họ vẫn là quốc gia mạnh nhất và trên lý thuyết là thành công nhất. Một quốc gia nhỏ muốn phát triển Khoa học Kỹ thuật không còn cách nào khác ngoài lựa chọn duy trì dân chủ ở mức tối đa và cởi mở để được hội nhập vào thế giới và động viên và giữ chân được những nhân tài, startup đổi mới sáng tạo cống hiến với đất nước.
Vấn đề “hội nhập” (đề ra trong Nghị quyết 59) mà chế độ lẽ ra phải đặt ra phải là một cố gắng chấp nhận quả quyết những giá trị phổ cập mà thế giới đã chấp nhận trong đó có quyền con người được thể hiện trong Tuyên ngôn về quyền con người phổ quát, đã được biết đến như xương sống của một thế giới tiến bộ. Họ sẽ sớm mất vai trò của một quốc gia cầu nối, hay một trạm trung chuyển- nghĩa là ngoại giao cây tre phá sản. Nhưng quan trọng hơn chế độ cộng sản Việt Nam cũng chẳng thể hội nhập vào một thế giới mới nếu đặt những luật an ninh mạng, những điều 331, 109, 117 đặt ra để tội phạm hóa những người chỉ muốn đóng góp ý kiến hoặc bày tỏ nguyện vọng thay đổi đất nước. Đằng nào thì vấn đề đặt đất nước dưới sự bảo trợ của Trung Quốc, hay lựa chọn bỏ thế giới để “hội nhập” về chính trị với Trung Quốc như họ luôn làm không còn đặt ra vì đế chế Trung Hoa cũng đang nguy kịch.
Nhưng ngay cả một cố gắng cải tổ thành thực trong khuôn khổ chế độ (chứ không phải trên Nghị quyết) cũng không thể bù đắp một khối di sản của đảng Cộng sản Việt Nam như một lực lượng chính trị đã gây ra những thảm họa của dân tộc bao gồm các chính sách đấu tố địa chủ, ám sát những đảng viên các đảng Quốc Gia, là thủ phạm của cuộc nội chiến kéo dài, và đồng thời là người phải chịu trách nhiệm duy nhất cho những đàn áp dân oan, tù nhân chính trị, tôn giáo sau năm 1975 mà nạn nhân của họ đã là hàng triệu người. Xu hướng đưa chế độ đảng trị về một chế độ chuyên quyền hơn của một thiểu số công an và nhóm người Hưng Yên dưới sự lãnh đạo của ông Tô Lâm, và tăng cường áp bức trong xã hội cần phải nhận diện như một cố gắng chống lại cải tổ ngay cả trong khuôn khổ đảng Cộng Sản Việt Nam, và càng xa vời hơn với những cố gắng cởi mở để là tác nhân của dân chủ.
Đầu tranh cho một dáng hình, một chỗ đứng cho đất nước
Một trật tự chuyển tiếp kéo dài không tạo thêm thời gian vay mượn cho các chế độ độc tài, nó chỉ nhận diện và triệt tiêu những xu hướng độc tài. Các cuộc xung đột giữa Do Thái và Iran là cuộc xung đột giữa một nhà nước đã dân chủ hóa nhưng còn một lực lượng thần quyền đáng kể cản trở một cố gắng tuyệt đối đi về dân chủ, và một nhà nước độc tài thần quyền đã trói buộc những con người vốn rất cởi mở. Xung đột biên giới giữa Thái Lan và Cambodia là cuộc tranh chấp giữa hai nhà nước vừa duy trì quân phiệt và gia đình trị- dù Thái Lan có một mức độ dân chủ cao hơn. Mặt khác, những nước đã có dân chủ ở một mật độ cao đều có một mức độ ổn định tương đối trong một thế giới hỗn loạn (ngoại trừ Hoa Kỳ vì có vấn đề phải từ nhiệm vai trò lãnh đạo thế giới và xét lại một mô thức sai lầm). Sự gia tăng của những cuộc xung đột trong khu vực, bất ổn chỉ là một sự phản ứng nhận diện của thế giới để kết luận là mọi xu hướng độc tài: dù là độc tài đảng trị, độc tài cá nhân, gia đình trị, quân phiệt, tài phiệt kiểm soát chính trị, các chế độ dựa trên thần quyền, dân tộc cực đoan là mối nguy với an ninh- trật tự của thế giới.
Nếu những người an ninh chế độ cộng sản Việt Nam cho rằng Việt Nam vẫn ổn định là vô cùng sai lầm: (1) Việt Nam sẽ phải xét lại một mô hình kinh tế sai lầm dựa trên xuất khẩu, đầu tư nước ngoài trong một thế giới đang có những thay đổi vô cùng lớn về trật tự thương mại mà chúng ta chắc chắn sẽ mất đi vị trí như một trạm trung chuyển; (2) Việt Nam vì thể chế chính trị sẽ gặp những vẫn đề rất khó khăn để hội nhập vào một trật tự thế giới mới và đang ở trong một tương lai vô cùng bấp bênh dẫu có một địa chính trị thuận lợi, một đường biển dài mát mẻ và gần với đường giao thương thế giới- là một đảm bảo của hội nhập nếu có dân chủ hóa; (3) chúng ta sẽ phải giải quyết những mâu thuẫn đã tích tụ quá lớn trong xã hội với một cố gắng hòa giải và đem công lý hiện diện trên đất nước, (4) và hơn hết chúng ta phải đem những người Việt Nam hiện diện trở lại tại chính đất nước mình hoặc là chấp nhận mất nước. Việc chấp nhận làm thanh gươm-lá chắn của chế độ là một hành vi vô trách nhiệm, đưa đất nước đến một chu kỳ hoang dại và hỗn loạn.

Xu hướng gia tăng bạo ngược và công an trị của ông Tô Lâm chắc chắn là một sai lầm tai hại. Nhưng đằng nào thì chế độ Cộng Sản Việt Nam không thể cải tổ mà phải thay thế mà ở đó các đảng viên của chế độ cộng sản chỉ có hai lựa chọn: trở thành tác nhân của dân chủ bằng cách tham gia vào tiến trình dân chủ, hoặc là nạn nhân của tình trạng hỗn loạn do mình gây ra bất kể là bị chính người người đồng chí của mình hãm hại, hoặc bị lật đổ bởi một đám đông giận giữ. Sẽ không có một lựa chọn thứ ba, và trong các lựa chọn dân chủ hóa- con đường dân chủ đa nguyên trên một tinh thần bất bạo động và hòa giải dân tộc sẽ là một đảm bảo lớn nhất để đất nước chuyển tiếp trong hòa bình và không có thêm một nạn nhân của bạo lực.
Một trật tự thế giới mới đang kéo đến, và một giai đoạn chuyển tiếp phải là một thời điểm để chúng ta đấu tranh cho dáng hình, và chỗ đứng của đất nước ngày một quyết liệt và công khai hơn. Chúng ta sẽ không chấp nhận mọi con đường chuyển hóa nào khác của chế độ ngoài con đường dân chủ hóa một cách thành thực, chúng ta sẽ khước từ sự bạo ngược bất dung của ông Tô Lâm và đảng Cộng sản Việt Nam- người phải chịu trách nhiệm chính về quyết đinh đàn áp Trần Khắc Đức, Quách Gia Khang và giam cầm khoảng 400 tù nhân chính trị hiện tại; và sẽ chỉ chấp nhận nếu đó là con đường dân chủ đa nguyên và tinh thần hòa giải dân tộc. Những người anh em an ninh nên bỏ họng súng, những người anh em tuyên giáo nên bỏ những lời lẽ thóa mạ, đảng viên cộng sản dù là ai hãy bỏ chiếc lưỡi gỗ và mặt nạ để đến với nhau trong tinh thần hòa giải: chúng ta chỉ có một đất nước Việt Nam để nuôi dưỡng một ước mơ lớn lao và để hy vọng, nếu một viễn tượng về thế giới mới sắp tới cho chúng ta cơ hội duy nhất còn lại- chúng ta buộc phải phấn đấu để nắm lấy nó.
Chu Tuấn Anh