Đi thăm con rồng Đài Loan (Nguyễn Gia Kiểng)

Chùa Long Hổ Cao Hùng

Chùa Long Hổ Cao Hùng

Nhắc lại: vào năm 1945, khi Thế Chiến II chấm dứt Việt Nam là nước nhiều triển vọng nhất Đông Nam Á, hơn cả Đài Loan và Hàn Quốc. Năm 1975 miền Nam dù đã bị chiến tranh tàn phá vẫn không thua Đài Loan và Hàn Quốc bao nhiêu. Bây giờ, sau 50 năm hòa bình dưới chế độ cộng sản, chúng ta là một trong những nước nghèo và tụt hậu nhất Châu Á. Chúng ta xuất khẩu lao động, xuất khẩu phụ nữ. Chúng ta bán dân. Dù dân số Việt Nam đang giảm xuống và già đi.

Tôi vốn không thích con rồng. Tôi thấy nó hình thù gớm ghiếc chẳng có gì là mỹ thuật. Cũng chẳng ai cho nó là thông minh, sáng tạo hay phúc đức. Tôi thăm Đài Loan không phải vì nó được coi là một con rồng của Châu Á mà vì tôi là người Việt Nam, và một người Việt Nam có rất nhiều điều để suy nghĩ trên đất nước này, đặc biệt là vào năm nay 2025.

Một nước đẹp và đáng yêu dù…

Đài Loan có nhiều điểm đáng yêu. Đường phố sạch sẽ một cách tuyệt vời. Trong ba ngày dạo phố tại thủ đô Đài Bắc tôi không hề thấy một cọng rác, các thành phố khác tôi đã đi qua cũng thế. Con người Đài Loan hiền hòa và tốt bụng. Cảnh trí thiên nhiên vừa đẹp vừa sạch, như công viên Dã Liễu, đầm Liên Trì, hồ Nhật Nguyệt v.v. Các công trình xây dựng tráng lệ cũng không thiếu. Như chùa Phật Quang Sơn, chùa lớn nhất thế giới với tượng Phật ngồi cao 40 mét trên một ngọn đồi; hay tháp Long Hổ, tháp Đài Bắc 101 v.v.

Tuy vậy các thắng cảnh thiên nhiên của một hòn đảo không thể có tầm vóc của những thắng cảnh lục địa. Các công trình xây dựng cũng đều mới – di tích cổ kính nhất là khu phố cũ An Bình chủ yếu do Công Ty Đông Ấn Hà Lan xây giữa thế kỷ 17 – và do đó không có sự cuốn hút của các di tích lịch sử. Mặt khác vì Đài Loan đã phát triển kinh tế quá nhanh nên các đô thị, kể cả thủ đô Đài Bắc, chưa kịp hòa nhịp. Bên cạnh các cao ốc mới hoành tráng vẫn có thể còn những nhà cũ nhỏ và đen đúa với các dây điện chằng chịt treo trên không. Người Đài Loan hình như cũng chưa có tập quán rửa và sơn lại nhà.

Một lý do khác có thể gây thất vọng cho một số du khách là các nhà hàng. Các bạn trong nhóm du khách từ Pháp đến cùng với tôi đều nói là các bữa ăn không ngon bằng các nơi khác, kể cả Thái Lan và Việt Nam. Người Đài Loan hình như ít quan tâm đến ăn uống. Một đặc điểm của các thành phố Đài Loan là có rất nhiều siêu thị nhỏ Seven-Eleven, nhiều hơn hẳn tại Mỹ và mở cửa suốt ngày đêm chứ không phải chỉ từ 7 giờ sáng tới 11 giờ khuya như tại Mỹ. Các siêu thị này có bán các phần ăn nấu sẵn, khách hàng có thể mua để mang đi nhưng cũng có thể hâm nóng và ăn ngay tại chỗ tại một góc có bàn ghế và café. 

Người Đài Loan có vẻ lo làm việc hơn là hưởng thụ. Giá các bữa ăn, ngay cả trong các nhà hàng, rẻ một cách lạ thường. Đối với tôi đây là một ngạc nhiên thú vị dù ăn không phải là quan tâm của tôi khi tới đây. Tôi tới đây để để tiếp xúc trực tiếp với xã hội Đài Loan và hy vọng có thể kiểm chứng những gì tôi đã học hỏi được về nước này. Và tôi đã thấy một xã hội ổn vững của những con người giản dị đáng mến, hiền hậu và chăm chỉ. Người Đài Loan rất thực thà và lương thiện; trộm cắp và lừa đảo hình như không có trên hòn đảo này. Một điều ngộ nghĩnh là họ kỵ số 4. Trong các khách sạn mà tôi đã đến, sau lầu 3 là lầu 5. Tôi được giải thích là vì chữ tứ (bốn) được phát âm giống như chữ tử (chết), không biết có đúng không.

Tác giả chụp trên đường phố Đài Bắc

Đài Loan và Việt Nam 

Du lịch Đài Loan khá thú vị nhưng lý do chính đưa tôi tới đây là vì Đài Loan và Việt Nam có khá nhiều điểm chung. Hai nước đều nhìn Trung Quốc như một đe dọa nhưng đó không phải là tất cả.

Trước hết cả hai nước đều đã được hình thành do cùng một biến đổi thiên nhiên: đợt nóng lên của trái đất bắt đầu cách đây khoảng 15.000 năm. Trước đó Đài Loan gắn liền với tỉnh Phúc Kiến của Hoa Lục, và Biển Đông của chúng ta (thường được gọi là Biển Nam Hoa) chưa có, thay vào đó là một vùng núi non rộng lớn nối liền Việt Nam, Philipin, Indonesia và Malaysia trên đó sống thưa thớt những bộ lạc với hai sắc dân chính là Nam Đảo (Austronesian)  và Nam Á (Austroasiatic). Sự nóng lên của trái đất đã làm tan các khối băng và khiến nước biển dâng lên tạo ra Biển Đông và eo biển Đài Loan, tách Đài Loan khỏi lục địa Trung Hoa. Nó cũng khiến các sắc tộc sống rải rác trong vùng Đông Nam Á phải dần dần, trong một chuyển động liên tục kéo dài hơn 10.000 năm, tập trung lại và tạo ra Việt Nam, cũng như Đài Loan, Philipin, Indonesia và Malaysia với hình thể hiện nay. Trước đó mức độ tập trung không đủ để tạo ra những xã hội và những nền văn minh đúng nghĩa. Đài Loan chủ yếu đón nhận người Nam Đảo trong khi Việt Nam chủ yếu đón nhận người Nam Á. Nói chung cả hai nước đều chỉ được khai hóa khi tiếp xúc với hai nền văn minh Ấn Độ từ phía Nam và Trung Hoa từ phía Bắc. Mức độ tập trung dân chúng cũng như sự tiếp xúc với văn minh Trung Hoa của Đài Loan yếu và trễ hơn hẳn Việt Nam cho nên có thể nói Đài Loan chỉ thực sự bước vào kỷ nguyên văn minh có tổ chức xã hội vào thế kỷ 17 khi Công Ty Đông Ấn Hà Lan thiết lập tại đây một trạm giao thương và lôi kéo sang một khối người từ Phúc Kiến. Ngay sau đó Đài Loan trở thành một đảo của người Hoa phò Minh chống Thanh khi Trịnh Thành Công đuổi được người Hà Lan. Không bao lâu họ Trịnh bị nhà Thanh tiêu diệt và Đài Loan trở thành một phủ rồi một tỉnh của Trung Quốc từ năm 1683. Việt Nam do quy mô lớn hơn và tiếp xúc với văn minh Trung Hoa sớm hơn nhiều, trước gần 2000 năm, đã trở thành một quốc gia độc lập với Trung Quốc ngay từ thế kỷ 10, rồi dần dần mở rộng về phía Nam.

Đài Loan thuộc Nhật từ 1895 cho đến 1945, rồi trở lại thuộc Trung Quốc sau đó. Từ 1949, sau chiến thắng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch đem lực lượng sang Đài Loan và biến đảo này thành nước Trung Hoa Dân Quốc với hy vọng có ngày quay trở lại giải phóng lục địa. Chính quyền của Tưởng Giới Thạch vẫn được coi là đại diện duy nhất của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc cho tới năm 1971. Từ đó, sau khi Bắc Kinh được Liên Hiệp Quốc nhìn nhận thay Đài Loan, khuynh hướng độc lập coi Đài Loan là một nước riêng ngày càng mạnh lên, trong khi Trung Quốc dưới chính quyền cộng sản hăm dọa sẽ tấn công nếu Đài Loan tuyên bố độc lập; Bắc Kinh khẳng định Đài Loan là một phần của Trung Quốc và phải thuộc quyền của Bắc Kinh, nếu cần bằng vũ lực. Tương lai của Đài Loan và quan hệ với lục địa đang là một câu hỏi lớn, không chỉ cho Đài Loan mà cho cả Châu Á và thế giới. Điều tôi muốn biết khi tới đây là người Đài Loan lo âu tới mức độ nào về khả năng Bắc Kinh tấn công chinh phục. Nhận xét của tôi là họ tỏ ra khá yên tâm. Theo tôi họ có lý, khả năng này rất thấp.

Cho tới năm 1975 Đài Loan và phe quốc gia Việt Nam – Quốc Gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng Hòa – là hai đồng minh chống cộng với mức độ phát triển ngang nhau. Năm 1975 đã là một khúc rẽ lớn giữa hai nước. Năm đó Tưởng Giới Thạch qua đời và Đài Loan bắt đầu tiến trình dân chủ hóa để trở thành một trong những nền dân chủ gương mẫu bậc nhất thế giới trong khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ và Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản. Bây giờ sau 50 năm Đài Loan là một trong những nước phát triển nhất, với lợi tức bình quân trên mỗi đầu người đứng hàng thứ 11 trên thế giới, gấp hơn 10 lần Việt Nam. Trong khi Việt Nam vẫn còn là một nước chậm tiến bị tàn phá bởi tham nhũng. Nếu cần một so sánh về phúc lợi giữa dân chủ và độc tài thì so sánh giữa Đài Loan và Việt Nam là một bằng chứng hùng hồn.

Một nhân vật người Việt Nam cần nghĩ lại.

Có một biến cố rất đặc biệt tại Đài Loan gắn liền với một nhân vật khá quen thuộc với người Việt Nam, Lưu Vĩnh Phúc, mà người Việt chúng ta thường biết đến như là thủ lãnh của bọn Giặc Cờ Đen.

Năm 1895 sau khi thua Nhật trong cuộc chiến Giáp Ngọ, nhà Thanh đã phải ký hòa ước Mã Quan nhường đảo Đài Loan cho Nhật. Đây là một sự đầu hàng vì lúc đó gần như toàn bộ người Đài Loan đều là gốc Trung Quốc, người thổ dân gốc Nam Đảo còn lại rất ít, người Nhật gần như không có. Nhân dân Đài Loan đã phẫn nộ và tuần phủ Đường Cảnh Tùng, với sự thôi thúc của tổng binh Lưu Vĩnh Phúc, tuyên bố thành lập nước Đài Loan Dân Chủ Quốc. Đây là chế độ dân chủ đầu tiên tại Châu Á, 16 năm trước cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 tại Trung Quốc và 50 năm trước mọi chế độ dân chủ khác tại châu Á. Nước Đài Loan dân chủ này chỉ tồn tại được nửa năm vì quân Nhật lập tức tấn công, Đường Cảnh Tùng bỏ chạy về Trung Quốc. Lưu Vĩnh Phúc lên thay và kháng cự rất oanh liệt trong cuộc chiến cho tới nay vẫn được coi là cuộc chiến dữ dội nhất trong lịch sử Đài Loan, nhưng vì cô thế phải bỏ chạy về Hoa Lục và Đài Loan thuộc Nhật cho tới hết Thế Chiến II.

Lưu Vĩnh Phúc sinh ra tại Quảng Đông trong một gia đình nghèo khổ, không được đi học, khi cha mẹ chết không có cả quan tài để chôn. Lớn lên Lưu Vĩnh Phúc theo Hồng Tú Toàn chống nhà Thanh lập ra Thái Bình Thiên Quốc tại miền Nam Trung Quốc. Hồng Tú Toàn chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo nhưng lại bị các nước Phương Tây thù ghét vì tự xưng là em của chúa Giê Su Kitô. Nhà Thanh đã tấn công dữ dội, tiêu diệt Thái Bình Thiên Quốc và tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông, Quảng Tây. Năm 1865 Lưu Vĩnh Phúc, lúc đó chỉ là một tướng nhỏ của lực lượng Thái Bình Thiên Quốc, đem 200 quân chạy xuống vùng Lào Cai cướp bóc để sống và tăng cường lực lượng. Lúc đó vùng biên giới Việt Trung – từ Lai Châu, Lào Cai cho đến Lạng Sơn, Quảng Ninh – chưa hẳn thuộc nước ta. Các lãnh chúa địa phương còn chống triều Nguyễn. Lưu Vĩnh Phúc đã thần phục triều Nguyễn từ năm 1868 và trở thành một tướng của triều Nguyễn để bình định vùng biên giới phía Bắc, tiêu diệt các đạo quân Hmong, Cờ Trắng, Cờ Vàng v.v. Phải nói chủ yếu nhờ Lưu Vĩnh Phúc mà các tỉnh biên giới Việt Trung đã thuộc hẳn vào Việt Nam.

Cũng chính Lưu Vĩnh Phúc, trong tư cách đề đốc phó lãnh binh của tổng binh Bắc Hà Hoàng Kế Viêm, đã giành được cho Việt Nam hai chiến thắng chống cuộc chinh phục của người Pháp tại miền Bắc do Françis Garnier (năm 1873) và Henri Rivière (năm 1883) cầm đầu. Do ảnh hưởng của người Pháp, các tài liệu lịch sử cho tới gần đây vẫn gây hiểu lầm coi Lưu Vĩnh Phúc là «tướng giặc Cờ Đen» dù lúc đó ông đã là một tướng Việt Nam từ lâu rồi.

Sau này, khi Việt Nam nhượng bộ ký hòa ước Patenote năm 1884 chấp nhận sự bảo hộ của người Pháp, chính quyền Pháp cũng buộc Trung Quốc ký hiệp ước Thiên Tân nhìn nhận Việt Nam độc lập hẳn với Trung Quốc và đem Lưu Vĩnh Phúc ra khỏi Việt Nam. Lưu Vĩnh Phúc trở thành một tướng của Nhà Thanh và được đưa về làm tổng binh Quảng Đông, rồi năm 1894 được chuyển sang làm tổng binh Đài Loan, để rồi ngay sau đó thành lập và làm tổng thống Đài Loan Dân Chủ Quốc trước khi phải bỏ chạy về lục địa. Năm 1902 ông lại được nhà Thanh phong chức tổng binh Quảng Đông. Năm 1911, sau cuộc cách mạng Tân Hợi lật đổ nhà Thanh, Lưu Vĩnh Phúc được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc phong làm tổng trưởng Dân Đoàn Quảng Đông. Trong thời gian cuối đời tại Quảng Đông, tư dinh của Lưu Vĩnh Phúc được coi như sào huyệt của các lực lượng Việt Nam lưu vong chống Pháp. Chính tại đây mà Việt Nam Quang Phục Hội của Cường Để và Phan Bội Châu được ra đời với chủ trương thành lập một nước Việt Nam Dân Quốc, nghĩa là đoạn tuyệt với triều đình Nguyễn. Lưu Vĩnh Phúc được Đài Loan và Trung Quốc tôn vinh như một vị anh hùng.

Lưu Vĩnh Phúc quả là một nhân vật rất độc đáo. Con nhà nghèo, tự học, mồ côi sớm không nơi nương tựa mà lên tới đại tướng rồi tổng thống; theo Hồng Tú Toàn chống nhà Thanh rồi lại được nhà Thanh trọng dụng; tướng của nhà Thanh nhưng lại được tôn vinh sau cuộc cách mạng dân chủ 1911; sang Việt Nam làm giặc cướp rồi trở thành vị tướng kiệt xuất nhất của Việt Nam trong gần 20 năm. Ông cũng là người lập ra chế độ dân chủ đầu tiên tại Châu Á. Với nước ta Lưu Vĩnh Phúc cũng có công rất lớn. Ông  đã góp phần quyết định khiến các tỉnh biên giới phía Bắc đã thuộc hẳn vào Việt Nam. Trong cuộc chiến chống lại cuộc chinh phục của người Pháp Việt Nam đã chỉ thắng hai trận, cả hai đều là công lao của Lưu Vĩnh Phúc. Sau này Lưu Vĩnh Phúc cũng là chỗ dựa của các nhà ái quốc Việt Nam lưu vong.

Khi đến Đài Loan tôi được biết là tại Đài Nam có một đường phố mang tên Lưu Vĩnh Phúc (đây là một ngoại lệ vì người Trung Quốc ít dùng tên người cho các đường phố). Tôi có ý định đến phố này để đi dạo và nhớ đến Lưu Vĩnh Phúc. Ông đã là một gạch nối lớn giữa Việt Nam và Đài Loan. Rất tiếc thời gian ở Đài Nam quá ngắn.

Khó mà không buồn tủi

Một quan hệ lớn khác giữa Việt Nam và Đài Loan là khối đồng bào ta ở đây. Theo chính quyền Đài Loan hiện có 600.000 người Việt Nam ở đây. Con số này rất có thể là thấp hơn sự thực bởi vì khó có thể biết số người Việt cư trú bất hợp pháp là bao nhiêu. Một anh hướng dẫn viên kể chuyện rằng có một chuyến du lịch trong đó tất cả các du khách Việt Nam đều bỏ trốn. Những người này rất dễ tìm việc làm trong các công xưởng hoặc nông trại, chính quyền Đài Loan làm ngơ vì họ rất thiếu công nhân. Một trong những mối nguy của Đài Loan là dân số đang giảm nhanh, tỷ lệ sinh đẻ chưa được 1 con mỗi phụ nữ theo thống kê năm 2023. Trong số người Việt ở Đài Loan có hơn 100.000 «cô dâu Việt Nam», những phụ nữ Việt Nam nghèo được gia đình bán cho những người đàn ông Đài Loan do địa vị khiêm tốn không tìm được vợ tại đây.

Nhắc lại: vào năm 1945, khi Thế Chiến II chấm dứt Việt Nam là nước nhiều triển vọng nhất Đông Nam Á, hơn cả Đài Loan và Hàn Quốc. Năm 1975 miền Nam dù đã bị chiến tranh tàn phá vẫn không thua Đài Loan và Hàn Quốc bao nhiêu. Bây giờ, sau 50 năm hòa bình dưới chế độ cộng sản, chúng ta là một trong những nước nghèo và tụt hậu nhất Châu Á. Chúng ta xuất khẩu lao động, xuất khẩu phụ nữ. Chúng ta bán dân. Dù dân số Việt Nam đang giảm xuống và già đi.

Người Việt Nam nào tới đây mà không thấy buồn tủi? Và không hiểu rằng cuộc đấu tranh cho dân chủ trước hết là để cứu tương lai đất nước và giành lại phẩm giá cho dân tộc?

Nguyễn Gia Kiểng

(07/09/2025)

About the author