
Khi thế lực này độc quyền cả quyền kể chuyện thì việc tước đoạt hay xâm phạm quyền sở hữu của người khác sẽ trở thành “bình thường” và cái giới không đủ bản lĩnh văn hóa và đạo đức sẽ mặc nhiên xem việc trộm cướp của chúng là “bình thường”.
Nguyễn Hoàng Văn
Tin Mưa Đỏ dự tranh Oscar đến với tôi hầu như cùng lúc với tin người Nhật xuống đường phản đối người Việt rồi vụ này và vụ kia, mới rợi, của “công nghiệp trộm cắp” trên đất Nhật, như một chuyện dài feuilleton. [1] Ê chề và nhục nhã nên tôi, bất giác, lại tự hỏi mình là, giả như cái giấc mơ Oscar kia mà thành hiện thực, cái vinh này sẽ vớt vát được mấy phần của cái nhục này?
Xem như tương quan giữa thành tựu điện ảnh với phẩm giá quốc gia và tôi lại nghĩ ngay đến… Iran. Rất có thể, với ai đó, danh từ “Iran” luôn gợi lên những cảm giác bất an nếu không nói là ác cảm thì, ngược lại, chính những tinh hoa của điện ảnh Iran lại giúp tôi nhìn về đất nước và con người ở đây với rất nhiều thiện cảm.
“Iran”, đó là những vấn đề nhân quyền lưu cữu suốt mấy chục năm. “Iran”, đó là những giáo lệnh bất chấp luật pháp quốc tế, ngang ngược hạ lệnh xử tử công dân của nước khác chỉ vì đi trái với tín ngưỡng của mình. [2] “Iran” còn khiến chúng ta, thỉnh thoảng, lại xót ruột những khi đổ xăng vì sự quấy nhiễu trên eo biển Hormuz, huyết mạch lưu thông của nguồn cung ứng dầu mỏ toàn cầu. Và “Iran”, mới đây, tại Úc, đã hành xử như là côn đồ khi, thông qua Tòa Đại sứ Iran, thuê mướn giới xã hội đen đốt phá các thánh đường Do Thái giáo, dẫn đến việc bị đóng cửa, tuyệt giao. [3]
Nhưng đó chỉ đơn thuần là một hệ thống giáo quyền chống lại con người. Là cái bộ máy cai trị đang cướp bóc tài nguyên quốc gia như là của riêng và đang trộm cướp lịch sử, văn hóa cùng tín ngưỡng của Iran để chính danh hóa việc đè đầu cưỡi cổ người dân Iran. Nó không hề là dân tộc Iran với một bề dày lịch sử – văn hóa mà tôi thấm thía được từ những câu chuyện chan chứa tình người, trong một ngôn ngữ điện ảnh tinh tế, đầy cảm xúc.
Như Màu của Thiên Đường (The Color Of Paradise) mà, ngay từ phút đầu tiên, đạo diễn Majid Majidi, cũng là nhà sản xuất, đã khiến chúng ta chùng lòng với cảnh chú bé Mohammad tám tuổi đứng trơ trọi chờ cha tại trường học dành cho trẻ khiếm thị ở Tehran: hè đã đến, những học sinh nội trú đã được thân nhân đón về, còn mỗi mình chú đứng chờ trong vô vọng.
Cuối cùng thì Hashem, người cha góa vợ, cũng đến chỉ để khiến chúng ta còn chùng lòng hơn nữa. Xem đứa con tật nguyền là một gánh nặng, là mối hổ thẹn và là rào cản cho hạnh phúc tương lai của mình khi, rất muốn tục huyền với một góa phụ, Hashem lại thắc thỏm lo âu rằng, nếu phát hiện ra đứa con mù lòa, nhà gái sẽ hủy hôn. Hashem tìm cách đẩy con ra càng xa càng tốt. Hashem muốn trường học phá lệ, cho con mình nội trú trong mấy tháng hè. Không được thì Hashem lại, lén lút như một tên ăn trộm, giấu mẹ mà mang con đến gởi gắm một người thợ mộc khiếm thị, nói là nhờ dạy nghề.
Thầy và trò cùng một số phận và chúng ta còn chùng lòng thêm khi nhận ra những nỗi niềm khác nhau của họ về phần số của mình. Giàn giụa nước mắt, Mohammad than trách Thượng Đế chẳng yêu thương gì mình nên mới bắt mình mù lòa. Người thầy thì an ủi rằng, vì họ thiệt thòi, Thượng Đế sẽ càng yêu thương họ hơn. Nhưng nếu thế thì tại sao Thượng Đế không thương yêu một cách bình thường đi, ngay từ đầu? Mohammad muốn tìm Thượng Đế để hỏi cho ra lẽ và người thầy, dù bằng lòng với sự an bài của Thượng Đế, lại ấm ớ, không thể giải đáp trọn vẹn. Chỉ có thể giải thích chung chung rằng Thượng Đế có mặt ở mọi nơi và ai cũng có thể cảm nhận sự hiện diện của Người, ông thầy dạy nghề đã lẳng lặng né tránh, như một tên đào ngũ: kẻ một lòng tin vào sự an bài Thượng Đế hoàn toàn không đủ sức biện minh cho tình thương của Người.
Rồi thì sự thật cũng phát lộ, nhà gái không chỉ xem Ali như một gánh nặng mà còn là điềm xấu nên thẳng tay từ hôn. Không còn gì để giấu, Hashem đón con về nhưng, trên đường, hai cha con đã bị cuốn trôi khi cây cầu ọp ẹp trên con sông cuồn cuộn dòng nước dữ mùa lũ bị đổ. Đầu tiên chúng ta thấy Hashem bất động như hóa đá khi con trai chới với giữa dòng nước, cơ hồ đang giằng xé giữa hai tâm trạng, cứu con hay để đất trời giải thoát một gánh nặng nhưng, cuối cùng, bản năng phụ tử đã thắng. Hashem nhảy xuống cứu con và bị cuốn theo dòng nước.
Trong đoạn kết chúng ta chứng kiến cảnh Hashem tỉnh dậy trên bờ biển, không xa thi thể bất động của đứa con trai. Ông ta lảo đảo bước đến bế con rồi ngước mắt nhìn lên bật khóc như thể than trách trong khi bầu trời không có gì là ảm đạm, bi thương mà, trái lại, còn trong vắt, sáng rỡ ánh bình minh, lại rộn rã tiếng chim gõ kiến báo hiệu một ngày mới vui tươi. Từ từ, ngón tay của Mohammad khẽ khàng lay động như thể đang đánh vần theo hệ chữ của người mù và, tất cả, như muốn nói lên rằng, trong cái chết, chú bé chưa bao giờ thấy ai trên cõi trần này đã thấy được Thượng Đế mà mình tìm kiếm.
Cũng cảm động như thế với chút hài hước, cũng của Majid Majidi, là Những đứa trẻ của Thiên Đường (Children of Heaven). Câu chuyện xoay quanh hai anh em Ali và Zahra, mới chín tuổi và sáu tuổi nhưng thấu hiểu cảnh nghèo khi chủ nợ đều đặn réo gọi, nợ tiền trọ và nợ tiền thực phẩm. Bi kịch diễn ra khi Ali vô ý làm mất đôi giày của Zahra và hai anh em dặn nhau phải giữ kín bởi cha mẹ không thể nào kiếm ra tiền để mua một đôi giày mới. Giải pháp duy nhất là dùng chung: Zahra mang giày của anh đi học vào buổi sáng và khi tan học, Ali tức tốc chạy đến điểm hẹn tại một ngõ vắng để lấy giày đi học buổi chiều.
Ngày kia Zahra phát hiện một nữ sinh khác mang đôi giày của mình nên thầm lặng bám đến tận nhà và sau đó cùng Ali đến tận nơi đòi lại. Tuy nhiên, khi phát hiện rằng cha của bạn này bị mù, hai anh em lẳng lặng bỏ về, thôi thì mình đã khổ nhưng có người còn đáng thương hơn. Hai anh em tiếp tục dùng chung và dần dà, với Ali, mỗi lần đi học là một cuộc chạy đua, ngày càng bền bỉ, tốc độ.
Bi kịch kế tiếp bi kịch với chút hài hước khi Zahra phát hiện rằng nữ sinh “đáng thương” trên đã vứt bỏ đôi giày nhặt được của mình vì, nhờ học giỏi, được bố tặng cho đôi giày mới. Yếu tố bi hài còn tiếp diễn khi Ali hay tin về cuộc thi điền kinh mà giải nhì là một đôi giày và, dù đã trễ hạn, chú bé khẩn khoản trong nước mắt để xin dự thi cho bằng được và khiến huấn luyện viên của trường kinh ngạc. Không dự thi để giành cúp vô địch mà chỉ để kiếm một đôi giày cho em gái nhưng, do phấn khích trong chặng đua cuối giữa những lời cổ vũ, Ali đã về vùng lên, đích trước tiên và, do đó, đã thất hứa với em để chúng ta chứng kiến một nhà vô địch buồn xo.
Thế giới phi lý và bất toàn của người lớn đã được diễn tả một cách tinh tế thông qua số phận của những đứa trẻ hồn nhiên nhưng phải từng giờ từng ngày xoay xở trong nghịch cảnh, và những câu chuyện nhẹ nhàng nhưng chan chứa tình người như thế đã mang đến cho chúng ta bao nhiêu là thông điệp đầy ý nghĩa? Và chính những tác phẩm như thế đã cho thấy sự vô nghĩa lý của những lời quy trách, đổ lỗi sự yếu kém của nền điện ảnh cho vấn đề tài chính hay chế độ kiểm duyệt. Để kể lại những câu chuyện như thế đâu nhất thiết phải ngốn một kinh phí khổng lồ? Và có nơi nào mà sự kiểm duyệt có thể nghiệt ngã hơn một nhà nước thần quyền với luật Sharia để bảo vệ thứ trật tự đã hình thành từ 1400 năm trước? Có thể dẫn ra nhiều tác phẩm tuyệt vời như thế, Sun Children hay Ballad of a White Cow v.v. nhưng, ở đây, tôi không có ý giới thiệu điện ảnh Iran. Mà cũng quá dài dòng nếu điểm lại từng phim. Vấn đề chính là những tác giả như thế đã vượt qua sự kiểm duyệt của một thể chế khắt khe để kể lại những câu chuyện cần kể của đất nước và nhân dân mình. Và họ đã lay động trái tim chúng ta, giúp chúng ta hiểu rõ rằng đất nước với những con người tài năng và tình người là một việc, còn cái hệ thống giáo quyền áp bức kia là một việc.
Những phim đó tôi xem từ chương trình World Movies trên Đài truyền hình SBS của chính phủ Úc nhưng, cũng chương trình này, những phim Việt Nam lại làm tôi chán ngấy, nhiều khi xem không nổi, trừ Chuyện tử tế của Trần Văn Thủy. Gần đây nhất, với tôi, là Gái Già Lắm Chiêu mà SBS đặt tên bằng Anh ngữ là Royal Bride, phát hình đâu từ ba năm trước. Dẫu đã tự dặn mình là hãy cố lên, hãy xem bằng con mắt phân tích để, nếu đó là một phim dở, thì chỉ ra cái dở và, thậm chí, nếu đó chỉ một thứ phim nhảm, thì phải tìm ra độ nhảm nhí của điện ảnh Việt Nam nhưng tôi phải thú nhận sự thất bại của mình. Tôi không đủ kiên nhẫn để hoàn tất sứ mạng tự giao phó kia mà đành bỏ cuộc, đầu hàng chỉ sau hơn đâu chừng 30 phút.
Ấn tượng đầu tiên là không có con người mà chỉ là những đơn vị ấp ủ âm mưu. Mưu toan tiếp nối mưu toan, âm mưu tràn ngập đến.. bội thực và yếu tố con người hoàn toàn biến mất. Cả một đạo diễn bậc thầy như Trương Nghệ Mưu mà, khi lặn ngụp trong biển âm mưu của Hoàng Kim Giáp, cũng bị hụt hơi để cuốn phim với những kỹ thuật hay kỹ xảo điện ảnh siêu hạng này trở thành một sự phô trương rỗng tuếch. Gái già cũng là một bộ phim rỗng tuếch như thế và, cũng giống như những sản phẩm dở dở ương ương khác của điện ảnh Việt Nam, không thoát khỏi sự giả: một xã hội Việt Nam giả, những con người Việt Nam giả, đang thực hành một thứ tiếng Việt giả.
Có thể nói, tiếng Việt giả là mẫu số chung cho cái dở của điện ảnh Việt Nam. Các nhân vật, đa số, ai cũng nói như đọc với những lời thoại vô hồn, sống sượng như thể đọc văn mẫu vì ấp ủ quá nhiều thông điệp chính trị, đạo đức. Khi đã xem những “phim Việt” nhưng với toàn là đồi giả, từ con người đến môi trường sinh hoạt hay tiếng nói, cảm nhận của khán giả ngoại quốc cũng sẽ “giả” theo chăng?
Và tôi nghĩ đến nỗi niềm của Masahiko Fujiwara – một nhà toán học và tiểu luận gia Nhật từng nghiên cứu và giảng dạy tại các đại học Anh và Mỹ – về “phẩm giá” của nước Nhật.
Trong Phẩm giá của một quốc gia (The Dignity of the Nation), Fujiwara nói đến cái khác giữa những người Nhật lớn tuổi và giới trẻ khi du lịch nước ngoài. Giới cao niên thì hiếm người thành thạo Anh ngữ nên, khi đặt chân ra nước ngoài, phần đông chỉ biết cười trừ khi được người ngoại quốc hỏi han cái gì đó nhưng lại tạo nên ấn tượng về những người Nhật sâu sắc, thâm trầm, có cả một thế giới nội tâm phong phú. Còn giới trẻ thành thạo ngoại ngữ nhưng thiếu bề sâu thì, khi giòn giã đối đáp với người ngoại quốc, lại tạo nên ấn tượng về những người Nhật nông cạn, rỗng tuếch. Theo Fujiwara thì chính lớp trẻ này đã làm tổn thương hình ảnh của nước Nhật và sỉ nhục những người Nhật không biết tiếng Anh nhưng am hiểu sâu sắc về lịch sử, văn hóa Nhật. Ông mong rằng giới trẻ Nhật hãy nói ít thôi khi du lịch bên ngoài bởi, càng nói, họ sẽ càng góp phần hạ thấp phẩm giá của nước Nhật.
Nếu Fujiwara kêu gọi giới trẻ “biết thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe” để giữ gìn hình ảnh của đất nước thì, khi đứng ra đề cử Mưa Đỏ tranh giải Oscar, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đang “thưa thốt” như thế nào với Hàn Lâm Viện Điện Ảnh Mỹ, với giới điện ảnh quốc tế, và với nhân loại nói chung?
Nếu những tác phẩm điện ảnh Iran kể trên, như đã nói, diễn tả thế giới phi lý và bất toàn của người lớn qua cái nhìn của những đứa trẻ hồn nhiên nhưng phải vật lộn với nghịch cảnh thì, ở đây, tác giả của Mưa Đỏ đã làm điều ngược lại. Mưa Đỏ, như tôi đã đề cập trong bài viết mới đây, chỉ là một sự hái lượm linh tinh và là một sự cẩu thả về lịch sử đất nước. Và Mưa Đỏ, trong cái nhìn từ những tinh hoa của điện ảnh Iran kể trên, lại là câu chuyện mang tính định hướng chính trị mà nhà cầm quyền muốn kể cho những “đứa trẻ cao niên”, theo cách diễn tả của Tản Đà:
Dân hai nhăm triệu ai người lớn?
Đất bốn ngàn năm vẫn trẻ con
(“Mậu Thìn xuân cảm”, 1932)
Nói cách khác, đó là nỗ lực “trẻ con hóa người lớn” trên ý nghĩa nhận thức lịch sử và văn hóa. Và nếu những đạo diễn tài năng Iran cho chúng ta thấy một Iran với bề dày văn hóa và lịch sử hoàn toàn khác với thiết chế giáo quyền đang cai trị Iran thì, khi cái Bộ kia đứng ra đề cử Mưa Đỏ tranh giải Oscar, cả hai lại là một.
Tin Oscar này, như đã nói, đến với tôi cùng những tin tức nhói lòng về công nghiệp trộm cắp của người Việt trên đất Nhật và cái gì đã khiến người Việt chúng ta sa đọa như thế? Tôi nghĩ đến nhận xét của Paul Doumer, Toàn quyền Đông Dương rồi Tổng thống Pháp:
“Người An Nam chắc chắn là một tộc người vượt trội so với các dân tộc chung quanh. Người Cao Miên, Ai Lao và Xiêm La đều không chống lại được họ. Không một dân tộc trong Đế quốc Ấn Độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật Bản mới có tộc người có phẩm chất của người An Nam và giống như người An Nam. Người An Nam và người Nhật Bản chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai đều cần cù, thông minh, dũng cảm.” [5]
rồi, từ những trò trộm cắp lặt vặt và cụ thể trên đất Nhật, lại nghĩ đến những hành vi chiếm dụng tài nguyên và trộm cắp lịch sử, văn hóa của dân tộc mình, ngay trên đất nước mình, từ thập niên này đến thập niên khác.
Khi thế lực này độc quyền cả quyền kể chuyện thì việc tước đoạt hay xâm phạm quyền sở hữu của người khác sẽ trở thành “bình thường” và cái giới không đủ bản lĩnh văn hóa và đạo đức sẽ mặc nhiên xem việc trộm cướp của chúng là “bình thường”.
Đây, phải chăng, là một trong những lý do chính khiến cho chúng ta sa đọa, khiến chúng ta thản nhiên dẫm đạp lên phẩm giá của chúng ta?
Tham khảo:
- https://www.facebook.com/reel/762450913298661
https://www.facebook.com/reel/1310285477220748
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cqlzp019n6ko
Những thông tin liên quan từ mạng xã hội trên chưa được kiểm chứng chính thức, tuy nhiên, với “công nghiệp trộm cắp” của người Việt trên đất Nhật, những chuyện như thế không có gì là lạ, bất thường. - Khét tiếng nhất là giáo lệnh (fatwa) nhắm và nhà văn Anh gốc Ấn Salman Rushdie vì tác phẩm The Satanic Verses xuất bản năm 1988 khiến người Hồi giáo nổi giận, cho là xúc phạm đến giáo chủ Mohammad. Năm 1989 Giáo chủ Ruhollah Khomeini , lãnh tụ tối cao Iran, ra lệnh xử tử Rushdie khiến nguyên Thủ tướng Margarette Thacher cắt đứt quan hệ ngoại giao và ra lệnh bộ máy an ninh bảo vệ Rushidie. Bà Thatcher đồng ý rằng ông Rushdie đã xúc phạm người Hồi giáo nhưng đó là quyền tự do của ông ta và nước Anh sẽ bảo vệ đến cùng quyền tự do ngôn luận này.
- https://www.reuters.com/world/asia-pacific/iran-link-australian-synagogue-attack-uncovered-via-funding-trail-spy-agency-2025-08-27/
- Masahiko Fujiwara (2007), The Dignity of the Nation, IBC Publishing.
Sách song ngữ Nhật – Anh, phần Anh ngữ của Giles Murray. Những ý tưởng trích dẫn trong bài được trình bày trong Chương II: “Logic Alone Will Drive the World to Ruin”, trang 59-91. - Paul Doumer (2016) Xứ Đông Dương, NXB Thế Giới, trang 92
Nguyên tác L’Indo-Chine Française xuất bản lần đầu năm 1904, bản Việt ngữ của Lưu Đình Tuấn, Hiệu Constant, Lê Đình Chi, Hoàng Long, Vũ Thủy. Nguyễn Thừa Hỷ hiệu đính.
Paul Doumer làm Toàn quyền Đông Dương chỉ 5 năm (1897 -1902) nhưng đã cải cách triệt để hệ thống khai thác thuộc địa, đắc cử Tổng thống năm 1931 nhưng năm 1932 bị ám sát.
Từ “Đế quốc Ấn Độ” trong đoạn trên được dùng để chỉ vùng Đông Nam Á (theo chú thích của các dịch giả trong sách).
Nguyễn Hoàng Văn
(14/10/2025)